Hướng dẫn ôn tập bài Tràng Giang SGK Ngữ văn 11

TRÀNG GIANG

                                                                              – Huy Cận –

ÔN TẬP KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ BÀI TRÀNG GIANG:

Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác ở cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng Tháng tám và ở giai đoạn nào cũng gặt hái nhiều thành công. Trước cách mạng, ông là một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não. Thơ ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng là “Tràng giang”. (Nêu vấn đề theo đề bài)

Khái quát về bài thơ:

Bài thơ được sáng tác vào mùa thu năm 1939, khi đó Huy Cận đang là sinh viên trường Cao đẳng Canh nông ở Hà Nội. Những chiều buồn, nhớ nhà, Huy Cận thường ra bến Chèm bên bờ sông Hồng ngắm nhìn dòng nước mênh mang. Bài thơ được khơi gợi cảm xúc từ đây. Tác phẩm được in trong tập “Lửa thiêng”, viết bằng thể thơ thất ngôn, gồm một câu đề từ và bốn khổ thơ. Nhan đề bài thơ là “Tràng giang”, cũng đồng nghĩa với “Trường giang”, nghĩa là “sông dài”. Nhưng việc điệp lại âm mở “ang” ở nhan đề tạo ra âm hưởng vang xa, không chỉ gợi ra con sông dài vô tận mà còn rộng lớn mênh mang. Nhan đề bài thơ gợi ra nhiều cảm xúc.
Nội dung và nghệ thuật:
Khổ thơ đầu: mở ra bức tranh thiên nhiên tràng giang:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
                                        Con thuyền xuôi mái nước song song.
                                        Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
                                        Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Ba câu thơ đầu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ ra hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi lênh đênh trôi dạt trên dòng sông rộng lớn, mênh mông. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu đầu mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, miên man, miên man đến tận nơi nào. Không chỉ vậy, bằng phép đối giữa câu trên “Buồn điệp điệp” với câu dưới “nước song song”, nhà thơ còn ngầm so sánh nỗi buồn của mình cũng trùng trùng, điệp điệp, triền miên, vô tận như những con sóng. Trên dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, con thuyền không người lái, trôi vô định, lững lờ theo dòng nước. Hình ảnh con thuyền trôi nổi, đơn lẻ, vô định dường như càng trở nên bé nhỏ, mất hút đi giữa dòng sông sóng nước mênh mông, càng tô đậm nỗi buồn, sự cô đơn giữa không gian vô tận của nhà thơ. Ở câu ba, thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi đi cùng với dòng nước, nước đẩy thuyền trôi theo; thế mà ở đây Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về, nước lại”. Cảnh gợi ra sự cô đơn, xa vắng, chia lìa. Chính vì thế mà gợi ra trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Trăm ngả nước là trăm ngả sầu. Nỗi “buồn”  tăng cấp thành nỗi “sầu” chất chứa, chẳng thể vơi được. Câu thơ cuối khổ thơ mang nét hiện đại với một hình ảnh rất đời thường: một cành củi khô trôi dạt giữa “mấy dòng” nước. Phép đảo đưa hình ảnh “củi”, một sự vật bé nhỏ, tầm thường lên đầu câu làm nổi bật cái nhỏ nhoi của nó; và phép đối giữa “một” cành củi khô với “mấy” dòng nước càng nhấn mạnh hơn sự nhỏ nhoi, cô độc đến tội nghiệp của “cành củi khô” với dòng sông mênh mông vô tận. Hình ảnh này gợi liên tưởng đến kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời bất tận. Cả khổ thơ đầu, bằng sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại, nghệ thuật đảo, đối và hệ thống từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã khắc họa bức
tranh thiên nhiên tràng giang rộng lớn vô tận, gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa và
thân phận của những kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời.
Khổ thơ thứ hai: bức tranh tràng giang được hoàn chỉnh thêm bằng những chi tiết mới:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
                                             Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
                                             Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
                                             Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, nhỏ bé, thưa thớt, còn “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Tất cả gợi ra khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều, hoang vắng. Giữa khung cảnh ấy có lẽ con người càng trở nên đơn côi, rợn ngợp, đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái: vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt; vừa có thể là câu hỏi “đâu…” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người; lại cũng có thể là “đâu có…”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Dù hiểu theo cách nào thì cũng vẫn là quang cảnh vắng lặng, hắt hiu. Ở câu ba, câu bốn, thiên nhiên càng mở rộng ra cả bốn chiều: cao, sâu, dài, rộng. “Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa, bởi dường như đất và trời ngày càng xa nhau hơn. Không gian trở nên “sâu chót vót”. Đây là cách diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, nó mang nét đẹp hiện đại. Đôi mắt của nhà thơ không dừng lại ở bên ngoài của trời mây, nắng, mà như xuyên thấu vào đáy vũ trụ thăm thẳm, bao la, vô tận. Chưa hết, cõi không gian ấy không chỉ “cao”, “sâu” mà còn mở ra cả về chiều “dài”, chiều “rộng”: “sông dài, trời rộng”. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông, vô tận, còn những gì thuộc về con người lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: “bến cô liêu”. “Cô liêu” cũng là “cô đơn”, nhưng phải là “cô liêu” thì mới diễn tả hết cái bé nhỏ, đơn độc đến tội nghiệp. Hình ảnh này gợi ra kiếp người cô đơn, quạnh hiu đến đáng thương. Với những nét vẽ mới: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, trời sâu chót vót, bến cô liêu…bức tranh tràng giang không những không sống động hơn, mà càng chìm sâu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu quạnh.
Khổ thơ thứ ba: tiếp tục hoàn thành bức tranh tràng giang với những nét vẽ khác:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
                                          Mênh mông không một chuyến đò ngang.
                                           Không cầu gợi chút niềm thân mật,
                                           Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên sự bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không phải là một cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng gợi ra sự rợn ngợp trước thiên nhiên, cõi lòng như càng đau đớn, cô đơn. Giữa không gian tràng giang mênh mông đó không hề có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết: “Không một chuyến đò ngang”, “không cầu” để nối hai bờ sông rộng lớn, hoang vắng, thê lương. Cấu trúc phủ định “không…không…” phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi tận nơi nào. Không có gì kéo con người ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vẫn chỉ có dòng tràng giang rộng lớn mênh mông. Bên cạnh “hàng nối hàng” của cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng”. “Bờ xanh” “lặng lẽ” tiếp với “bãi vàng”, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không gian càng bao la, vô cùng vô tận. Cảnh có thêm màu sắc nhưng chỉ càng buồn hơn, chia lìa hơn.
Khổ thơ cuối: hoàn thiện nốt bức tranh tràng giang và trực tiếp bộc lộ cõi lòng nhà thơ.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
                                         Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
                                          Lòng quê dợn dợn vời con nước,
                                          Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Hai câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh kì vĩ, nên thơ. Cảnh được gợi lên bởi bút pháp nghệ thuật cổ điển với hình ảnh mây trắng, cánh chim chiều. “Mây cao” chồng chất tầng tầng “lớp lớp”, đang “đùn” thành “núi bạc”. Những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc, hình ảnh thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa kì vĩ, tráng lệ, vừa nên thơ. Có lẽ, câu thơ được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Huy Cận đã vận dụng tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Giữa khung cảnh rộng lớn, tráng lệ ấy xuất hiện một cánh chim chiều – một hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ, thường để báo hiệu thời gian chiều tối. Tuy nhiên, trong câu thơ của Huy Cận, nó không chỉ là báo hiệu thời gian, mà còn gợi ra không gian bao la vô cùng, vô tận bởi hình ảnh cánh chim nhỏ được đặt trong sự tương phản với không gian mây cao, núi bạc. Hình ảnh cánh chim nghiêng lệch chở nặng ráng chiều càng gợi ra hình ảnh thi nhân cảm thấy mình bé nhỏ, cô đơn, bất lực trước thời cuộc. Nét tâm trạng này dọc theo toàn bài thơ, không phải chỉ riêng của Huy Cận, mà nó là tâm trạng chung, là “nỗi buồn thế hệ” của các nhà Thơ mới. Nước mất nhà tan, nhân dân nô lệ, chưa đủ niềm tin vào con đường cách mạng, các nhà Thơ mới tìm cách thoát li thực tại, mỗi người một cách khác nhau: Thế Lữ thoát “lên tiên”, Lưu Trọng Lư “phiêu lưu trong trường tình”, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử “điên cuồng” trong thế giới ma quái, kì dị…Huy Cận ảo não tìm vào cái vắng lặng, mênh mông, vô tận của vũ trụ để quên đi thực tại đáng buồn.
Tâm trạng của nhà thơ bộc lộ rõ nét hơn trong hai câu cuối. “Dợn dợn” là từ láy nguyên rất sáng tạo của Huy Cận. Từ láy này đi cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương. Đó là nỗi niềm của một người con mất nước: nhớ quê hương ngay khi đang đứng giữa quê hương, khi quê hương đã không còn. Đây cũng là tâm trạng chung của các nhà Thơ mới lúc bấy giờ. Câu thơ cuối được gợi từ câu thơ cổ của Thôi Hiệu trong bài thơ “Lầu Hoàng Hạc” (Hoàng Hạc lâu):
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.
Xưa, Thôi Hiệu nhìn khói sóng thì buồn, nhớ quê nhà, còn nay, Huy Cận không cần tác động của ngoại cảnh mà vẫn “nhớ nhà”, bởi nỗi nhớ đó da diết lắm, sâu sắc lắm. Trong lòng thi nhân luôn thường trực nỗi nhớ ấy. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương tha thiết của nhà thơ, mới hiểu được “Tràng giang” là bài thơ “dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).
Nghệ thuật cả bài thơ:

  • Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Cổ điển: thể thơ thất ngôn; những hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Hiện đại: sự xuất hiện của những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa; cảm xúc buồn mang dấu ấn “cái tôi” cá nhân…)
  • Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.

Ý nghĩa văn bản:
Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả.

MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP VỀ BÀI TRÀNG GIANG

            Dựa vào kiến thức cơ bản và phương pháp làm bài nghị luận văn học về bài thơ, đoạn thơ, học sinh luyện tập với các đề sau:
Đề 1: Phân tích khổ thơ sau trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
                                        Con thuyền xuôi mái nước song song.
                                        Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
                                        Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
                                         Con thuyền xuôi mái nước song song.
                                         Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
                                         Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
 
  Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
                                              Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
                                              Lòng quê dợn dợn vời con nước,
                                              Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Đề 3: Phân tích bài thơ “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận.
             Đọc tham khảo cách làm bài với đề văn sau để khắc sâu kiến thức cơ bản và phương pháp làm bài nghị luận phân tích một đoạn thơ.
Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
                                         Con thuyền xuôi mái nước song song.
                                         Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
                                         Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
 
  Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
                                             Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
                                              Lòng quê dợn dợn vời con nước,
                                              Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Tìm hiểu đề

  1. Dạng đề: Phân tích một đoạn thơ.
  2. Yêu cầu của đề:
  • Yêu cầu về nội dung: Làm rõ nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ.
  • Yêu cầu về thao tác: Phân tích là thao tác chính, cần kết hợp các thao tác khác như: chứng minh, bình luận, so sánh…
  • Yêu cầu về tư liệu: Tư liệu chính là những câu thơ trong đoạn thơ đã cho, tư liệu có liên quan để bổ sung cho ý phân tích.

Lập dàn ý
Mở bài: Giới thiệu tác giả Huy Cận, dẫn vào bài thơ “Tràng giang”. Nêu vấn đề: Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
(ghi nguyên văn đoạn thơ”)
Thân bài:
Khái quát: Nêu hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, thể loại, bố cục bài thơ, vị trí đoạn thơ ở đề bài, về nhan đề bài thơ.
Phân tích nội dung nghệ thuật đoạn thơ: Các ý chính cần phân tích:
Khổ thơ đầu : Bức tranh thiên nhiên tràng giang:

  • Ba câu đầu: mang màu sắc cổ điển.

+ Câu đầu: Hình ảnh “sóng”, cụm từ “gợn tràng giang”, từ láy “điệp điệp” -> diễn tả những con sóng liên tiếp vỗ vào nhau, nối đuôi nhau, lan ra rộng dần, xa dần, gợi nỗi buồn triền miên như những con sóng.
+ Câu hai: Hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, từ láy “song song” -> thuyền và nước không đi liền với nhau mà “song song”, gợi cảm giác rời rạc, buồn tẻ.
+ Câu ba: Hình ảnh “thuyền về nước lại”, cụm từ “sầu trăm ngả” -> thuyền và nước chia lìa, nỗi buồn tăng cấp thành nỗi sầu, nỗi sầu lan tỏa khắp không gian, trăm ngả nước là trăm nỗi sầu.

  • Cảnh tràng giang gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa.
  • Câu cuối : mang màu sắc hiện đại.

Phép đảo đưa hình ảnh “củi” lên đầu câu gợi ấn tượng về sự nhỏ nhoi; phép đối giữa “một”
cành củi khô với “mấy” dòng nước nhấn mạnh sự cô đơn, lạc lõng -> gợi liên tưởng đến thân phận những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời.
Khổ thơ tiếp theo, cũng là khổ thơ cuối bài thơ, vừa hoàn thiện bức tranh tràng giang, vừa trực tiếp bộc lộ nỗi lòng nhà thơ.

  • Hai câu đầu : bức tranh thiên nhiên tràng giang đậm chất cổ điển.

+ Câu đầu: Hình ảnh “mây”, “núi bạc”, từ “lớp lớp”, từ “đùn” -> khắc họa khung cảnh tràng giang rộng lớn, hùng vĩ, tráng lệ.
+ Câu hai: Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” giữa bầu trời rộng lớn mênh mông -> gợi sự nhỏ bé đến tội nghiệp.

  • Hai câu sau:

+ “Lòng quê” : tấm lòng với quê hương; “dợn dợn” : đong đầy.
+ Tâm trạng “nhớ nhà”; vận dụng sáng tạo thơ cổ.
Lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của nhà thơ.
Nghệ thuật đoạn thơ:
– Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Cổ điển: thể thơ thất ngôn; những hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Hiện đại: sự xuất hiện của những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa; cảm xúc buồn mang dấu ấn “cái tôi” cá nhân…)
– Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.
III. Kết bài : Kết luận chung về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, nêu ý nghĩa đoạn thơ.
(Tài liệu sưu tầm )
Xem thêm : Tuyển tập đề thi và những bài văn hay về   Tràng giang

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *