ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA THƠ ĐƯỜNG
QUA CÁC BÀI THƠ ĐƯỜNG
TRONG TRƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 NÂNG CAO
I: ĐẶC TRUNG CƠ BẢN CỦA THƠ ĐƯỜNG
Cấu tứ bằng xác lập những quan hệ tương đồng hay đối lập giữa các sự vật hiện tượng, giữa không gian, thời gian, giữa các trạng thái tình cảm, giữa tình và cảnh:
Tư duy thơ Đường là tư duy quan hệ. Người ta cảm nhận sâu sắc mối quan hệ giữa các sự vật trong không gian, giữa các hiện tượng và quá trình trong thời gian, giữa các trạng thái tình cảm, giữa tình và cảnh… Thơ chủ yếu thể hiện các mối quan hệ ấy. Thế giới nghệ thuật là thế giới của những quan hệ nên chất liệu để xây dựng thế giới ấy cũng được quan hệ hóa”.
Mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Các nhà thơ Đường chủ trương xây dựng lên rất nhiều các mối quan hệ: quan hệ xưa-nay; mộng – thực; tiên – tục; hữu – vô; vô cùng – hữu hạn; sống-chết;
tĩnh-động; tâm – cảnh; không gian-thời gian; đặc biệt là quan hệ giữa tình và cảnh… Chính vì lẽ đó đã làm cho tứ thơ mới lạ, đồng thời làm nổi bật sự tương đồng hoặc đối lập giữa ác sự vật hiện tượng, giữa các trạng thái tình cảm.
Đầu tiên giữa ‘các sự vật, hiện tượng, bằng các mối quan hệ, ta thấy được sự đối lập Chẳng hạn với bài thơ “Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, chỉ với mối quan hệ giữa lầu Hoàng Hạc và hạc vàng ta thấy được mối quan hệ giữa cái mất và còn, giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái vạn biến và cái trường tồn, giữa tiên và tục Hay trong bài hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của thi tiên Lý Bạch, cặp hình ảnh “cánh buồm lẻ loi – khoảng không xanh biếc chính được xây dựng bằng mối quan hệ đối lập giữa cái hữu hình với cái vô hình, giữa cái bé nhỏ với cái vô tận. Một ví dụ nữa trong bài khe chim kêu của Vương Duy, tác giả xây dựng mối quan hệ đối lập giữa động và tĩnh đặc sắc: đêm yên tĩnh – hoa quế rụng’, “trăng lên – chim núi kêu”.
Tuy nhiên, qua các mối quan hệ ta còn thấy được sự tương đồng giữa các sự vật, giữa các trạng thái tình cảm. Trong bài “Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ, cặp hình ảnh thơ đối nghịch (sóng vọt lên tận lưng trời-mây sa sầm giáp mặt đất là mối quan hệ trong không gian: trên-dưới nhưng cho ta thấy được sự nhất quán trong cảm xúc của nhà thơ, đó là sự tù túng, ngột ngạt đến nghẹt thở.
Mối quan hệ giữa không gian và thời gian:
Thứ hai là mối quan hệ giữa thời gian và không gian. Nếu xét riêng về thời
gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật thì ‘có rất nhiều điều để nói, tuy nhiên ở đây ta chỉ xét mối quan hệ giữa thời gian và không gian trong thơ Đường. Đó là sự tương quan qua lại: không gian thơ Đường được thời gian hóa làm cho nó thêm mênh mông, vời vại; ngước lại, thời gian cũng được không gian hóa (chẳng hạn như, trong thơ, các dấu tích lịch sử được cảm nhận như cùng tồn tại trong hiện tại, trong không gian. Phạm Ngũ Lão trong bài “Thuật hoài nhắc tới Vũ Hầu luồng thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” như là người cùng thời. Đặng Dung nhắc tới “Đồ điều- Hàn Tín câu cá và Phàn Khoái làm thịt chó mà không thấy xa vời). Theo quan niệm của Trung Quốc từ Lão Tử, Trang Tử đều không bao giờ tách rời không gian và thời gian thiên trường địa cữu”). Nhà thơ luôn thấy thời gian trong không gian, không gian biến hóa, bằng chứng là trong thơ Đường mọi biểu tượng không gian đều hàm chứa thời gian như’ “tha nhật lệ’ (“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ ), ‘(cựu thời hoa đình thu bất tri nhân khứ tạm Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa”), thu thuỷ”, “xuân sơn (“Làn thuỷ thuỷ, nét xuân sơn ), “thiên thu tuyết”, “Tần thời minh nguyệt, Hán thời quan”… Ngoài ra thì một số động từ như “tận”, “lưu’, một dùng để miêu tả trạng thái không gian cũng đồng thời biểu hiện thời gian.
Và như đã nói ở trên, mối quan hệ giữa thời gian và không gian có mục đích
nghệ thuật riêng, đó là tạo nét tương đồng hay đối lập giữa các sự vật hiện tượng, giữa các trạng thái tình cảm. Như trong bài “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng .Lăng , thời gian là giữa tháng ba, không gian là dòng sông Trường Giang với hoa khói bồng bềnh trên mặt nước. Mối quan hệ này góp phần thể hiện tình cảm, cảm xúc của thi nhân: ông buồn thương khi phải chia tay người bạn tri âm tri kỉ mà không hẹn được ngày gặp lại, nỗi buồn càng khắc sâu hơn khi thời gian chia tay đúng vào mùa xuân – mùa của sự sinh sôi, nảy nở và tươi mới, trên một con sông tấp nập thuyền bê qua lại xuôi về chốn phồn hoa đô thị Dương Châu.
c Mối quan hệ giữa các tranh thái tình cảm:
Các nhà thơ Đường thể hiện một cách đặc sắc các trạng thái tình cảm như.
Nhớ thương, lưu luyến, nuối tiếc, vui, buồn, mừng, giận, oán sầu…
Ví dụ: “Cô nhân tây từ Hoàng Hạc lâu-yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”
Lý Bạch đã biểu lộ sâu sắc nỗi nhớ thương tha thiết đối với người bạn tri kỉ của mình. Chỉ với một từ “cổ’ mà cái tình như hàn gắn sâu hơn, đậm đà hơn. ở đây ta nhận thấy có một sự di chuyển không gian đặc biệt: Kẻ ở là mùa hoa nở rộ mà người đi là con thuyền xuôi dòng Trường Giang mênh mông, bất tận. Sự cô đơn của cánh buồm cũng chính là sự cô đơn của Lý Bạch và cũng lả nỗi buồn thầm kín, sâu xa của Mạnh Hạo Nhiên. Nhà thơ tả cảnh người ra đi mà gợi lên cái tình thâm viễn của người ở lại thế mới biết cái hay cực kì trong việc biểu đạt tình cảm ‘ của ngôn ngữ thơ Đường.
Giống như Lý Bạch, trong “Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu cũng thể hiện nỗi
nhớ nhung đối với người xưa trên lầu cao chót vót, trơ trọi giữa đất trời bao la vô tận. Các từ ngữ, hình ảnh diễn tả nỗi sấu nhớ miên man trong cái không gian tĩnh mịch như. “tích nhân dĩ thừa”, “Bạch Vân thiên tải không du du ‘(Yên ba giang thượng sử nhân sầu ,… Ngoài nỗi nhớ bạn còn là nỗi nhớ tha thiết với quê hương của Thôi Hiệu. Mang tâm trạng đau đớn, tiếc nuối, nhà thơ nhớ quê hương với hàng cây soi bóng, bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn, xanh tươi: “Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ/ Phương thảo lê thê Anh Vũ châu . Cảnh sắc quê nhà tươi tắn gợi nỗi niềm man mác, trăn trở, lo âu của vị khách xa nhà.
Có thể nói bao trùm lên cả hai bài thơ của Lý Bạch và Thôi Hiệu là nỗi buồn thầm kín mà thấm thía được dựng lên từ mối quan hệ xưa và nay, thực và mộng, còn và mất. Đồng thời qua sự thể hiện tinh tế từ những từ ngữ giàu giá trị tạo hình và khả năng biểu đạt tâm trạng nhân vật được vẽ nên một cách rõ nét.
Mối quan hệ giữa tình và cảnh:
Đây là một trong những mối quan hệ khá phổ biến mà các nhà thơ luôn khai
thác và thành công xây dựng nó. Trong thơ Đường, tình và cảnh luôn tồn tại song song hay đối lập một cách sâu sắc, biểu hiện cụ thể tâm trạng con người trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian. Ta thấy rõ điều này trong rất nhiều các tác phẩm thơ Đường nổi tiếng. Như ở hai câu đầu bài điểu minh giản” của Vương Duy: “Nhân nhàn quế hoa lạc 1 Dạ tĩnh xuân sơn không” (Người nhàn hoa quế rụng/ Đêm xuân nín vắng teo). Câu thơ tả cảnh vật nhẹ nhàng, thanh cao. – Một khung cảnh thiên nhiên hữu tình, một bức tranh sơn thuỷ tĩnh mịch. Cảnh và người hoà hợp, người thì nhàn nhã, cảnh yên tĩnh không một tiếng động dù chỉ là nhỏ nhất. Không gian ở đây là cảnh sắc trời vào xuân vậy mà lại điềm tĩnh chỉ vài bông hoa li ti nhẹ nhàng. rơi trong đêm vắng. Đó là ý niệm của sự hoà quyện giữa con người và cảnh vật thiên nhiên. Trong hai câu sau: “Nguyệt xuất kinh sơn điều / Thời Minh tại giản trung (Trăng lên chim núi hãi / Dưới khe chốc chốc kêu không gian đột ngột thay đổi, đó là sự xuất hiện của âm thanh và ánh sáng. ánh trăng soi sáng, âm thanh tiếng chim núi tưởng chừng sẽ làm cho cảnh vật sinh động hơn những ở đây mọi thứ chỉ đủ sức làm nổi bật hơn sự tĩnh lặng của đêm trên nín vắng. Cảnh hoà hợp với người là vậy, cảnh bình yên thì người bình yên sống một cuộc sống thanh thản. nhàn nhã chốn điền viên sơn dã lánh tim trần. ấy là sự tồn tại song song giữa tình và cảnh. ‘
Trong bài (khuê oán” của Vương Xương Linh, cảnh và tình tồn tại đối lập với nhau. ấy là hình ảnh nữ phụ nữ hằng đêm phải đối mặt với bốn bức tường trắng, cô đơn trong cảnh giường đơn gối chiếc vắng vẻ, đìu hiu. Trước tình cảnh ấy nàng tự trang điểm bước lên lầu với tâm sự thầm kín, não nề. Trên lầu cao nhìn màu xanh dương liễu đang tràn đầy sức sống trái ngược với tâm trạng chính mình nàng hối hận vì xúi chồng đi để mang vinh hiển về cho gia đình. Tình và cảnh xâm nhập, thẩm thấu lẫn nhau tạo ra những hình ảnh của nỗi lòng thương nhớ não nề: “Khuê trung , “bất tri sầu , “hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc , hối dao phu tế mạch phong hầu”. ‘
Mối quan hệ giữa tình và cảnh còn được biểu hiện sâu sắc qua bài thơ “Thu hứng của Đỗ Phủ. Mùa thu trong thơ Đỗ Phủ bắt đấu từ rừng cây phong xơ xác phủ đầy sương trắng xóa. Mùa thu đã buồn, rừng thu úa vàng lại càng buồn hơn. Trong cái khí thu mang nặng nỗi sầu thì tâm hồn thi nhân cũng ảm đạm, buồn đau. Không những miêu tả khí thu u buồn hiu hắt mà nhà thơ còn miêu tả cảnh thu ở lòng sông, lưng trời, mặt đất và cửa ải: “Lưng trời sóng’ rợn lòng sông thẳm – Mặt đất mây đùn cửa ải ta Hai câu thơ tạo nên hai bức tranh đối nghịch nhau càng tô đậm tâm trạng u buồn của người viễn xứ. Đặc biệt hình ảnh “Khóm trúc tuôn thêm dòng lệ cũ được làm đối xứng cho con thuyền buộc chặt tình nhà cũng là buộc cả tấm lòng thương nhớ quê hương. Mùa thu thường gây nỗi buồn nhưng với Đỗ Phủ mùa thu còn là nỗi lo, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng nhà thơ.
Cấu tứ thơ Đường luôn có những đặc trưng riêng của nó nhưng ở bất cứ hình
thức nào, các mối quan hệ giữa không gian và thời gian, giữa cá trạng thái tình cảm, giữa tình và cảnh vẫn luôn được thể hiện rõ nét và”.mang tính khái quát cao.
Ngôn ngữ tinh luyện cao độ với những từ đắt (nhãn tự) gợi được linh hồn của đối tượng thể hiện:
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. .Điều này càng đúng với thơ, đặc biệt là
thơ Đường. Chữ dùng ở thơ Đường thường đơn giản nhưng rất tinh luyện. Số chữ được ghép dùng rất ít (chỉ 20 cho ở thể thơ tứ tuyệt ngũ ngôn và 56 chữ ở thơ thất ngôn bát cú), cho nên từ ngữ ở thơ Đường luật phần lớn được sử dụng rất đắt.. Đỗ Phủ nói “Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu (Lời thưa làm cho người ta kinh ngạc, chết rồi vẫn chưa yên Thậm chí, có nhà thơ coi mỗi chữ trong thơ Đường luật có vai trò như một ông thánh, ông hiền.
Khi phân tích thơ Đường, người ta thường nói tới danh từ khi nhãn” (nhãn
tự) tức là “con mắt thơ”. Tô Đông Pha đã từng nói: truyền thần chủ nan tại mục” (Ve truyền thần khó nhất là con mắt). Nếu như trong con người, đôi mắt giữ một vị trí biểu hiện đặc biệt quan trọng thì trong thơ Đường, u nhãn tự ‘ lại gợi lên được linh hồn của bài thơ. Một chữ hạ xuống đôi khi là then chốt, trụ cột cho toàn bài thơ, một cho là tinh hoa là cột đỡ cho cá một cung điện ngôn từ Nếu thiếu đi hay mất đi một từ ấy thôi bài thơ sẽ trở nên thật xoàng xĩnh đôi khi chẳng còn chút thơ nào. Cũng bởi thế, nhìn vào một “nhãn tự ấy thôi người đọc có thể nắm bắt được toàn bài như soi mình thấu đáy hồ thu. Nhìn chung, từ đắt, mắt chữ là những từ chìa khoá được tinh luyện cao độ, có sức khái quát cao, làm nổi bật được cái thần của sự vật.
Chẳng hạn với bài thơ hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, mối quan hệ giữa lầu
Hoàng Hạc và hạc vàng cũng là quan hệ giữa chữ “khứ ‘ và chữ “không , nghĩa là quan hệ giữa cái mất và cái còn, giữa quá khứ và hiện tại. Câu thơ nói đến hạc càng lấy thanh trắc làm chủ âm và chữ ‘(khứ’ làm nhãn tự đe nói có mất. Câu thơ tả lầu hạc lấy thanh bằng làm chủ âm và chữ “không làm nhãn tứ để nói cái còn, cái trống trải “du du . Việc sử dụng .các yếu tố hình thức vừa nêu đều tập trung tô đậm cảm xúc bâng khuâng, suy tư, tiếc nuối của nhân vật trữ tình trước cảnh lầu Hoàng Hạc còn đó mà hạc vàng đã bay đi.
Hay với bài thơ “Khuê oán của Vương Xương Linh thì nhãn tự của nó chính
là chữ “sắc” (“Hốt kiến mạch đầu dương liêu sắc 1 Hối giao phu tế mịch phong hầu ). Tứ thơ này đặc sắc vì người thiếu phụ thấy cái “màu cây dương liễu ở đấu đường mà hoảng hốt (hốt kiến) cho thân phận chinh phụ của mình, hối tiếc đã cho chồng đi chinh chiến.
Một số ý kiến cho rằng nhãn tự thường nằm ở vị trí thứ ba trong câu thơ ngũ ngôn và sẽ là chữ thứ năm trong câu thơ thất ngôn. Điều này đúng trong một số trường hợp như bài “Khe chim kêu” của Vương Duy thì nhãn tự chính là từ kinh (“Nguyệt xuất kinh sơn điểu Từ “kinh xuất hiện đã tạo nên linh hồn của bài thơ: Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là sự thống kê trong nhiều bài thơ Đường. Rất nhiều bài thơ mà nhãn tự của nó không nằm trong những vị trí như đã nêu mà vẫn thể hiện được cái thần của bài thơ, như chữ “sắc” trong bài “Khuê oán (nằm ở vị trí thứ 7); hay từ “khứ” (ở vị trí thứ 7) và từ “không” (ở vị trí thứ 3) trong bài “Hoàng Hạc lâu”. Dù ở vị trí nào đi chăng nữa thì nhãn tự vẫn là từ làm nổi bật cái thần của sự vật, gợi toát lên được linh hồn của cả bài thơ.
Tính hàm súc cao nhiều bình diện nghĩa dồn nén trong một phạm vi chữ hạn chế, tạo nên những .ý ngoài lời:
Hàm súc là hình thức diễn đạt, .qua đó, người nói có thể thông báo được một
nội dung lớn nhất bằng một số lượng các yếu tố ngôn ngữ ít nhất. Đây là đặc điểm, đồng thời cũng là yêu cầu rất cao của của ngôn từ văn học. Tính hàm súc của ngôn từ văn học có những biểu hiện cụ thể như sau: tính đa nghĩa, sự thống nhất tối đa các chức năng và đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật trong một yếu tố (hoặc một vài yếu /tô) của lời nói (luật thơ), tính hàm súc của ngôn ngữ văn học còn thể hiện ở dung lượng lớn những ý nghĩ, tình cảm mà người viết không viết ra, nhưng người đọc có thể tự mình suy ra được (tính hàm ẩn) và một số kết cấu khác như đứt nối, gợi tả…
Đặc trưng mĩ học của thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời. Kết cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thơ Đường luật đúc kết những kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng chính là mâu thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hoà càng lớn.
Sự thống nhất tối đa các chức năng và đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật trong một yếu tố (hoặc một vài yếu tô) của lời nói, tính hàm súc của ngôn ngữ văn học còn thể hiện ở dưng lượng lớn những ý nghĩ (luật thơ). Do đó câu số chữ của một bài thơ được hạn định, nên các nhà thơ phải tìm tòi những tinh hoa của dân gian, kết hợp với điển cố lịch sử và từ hoa lệ của văn học thành văn. Sự quy định niêm luật cho một thể thơ có thể hạn chế sự biểu đạt những tình cảm bay bổng, phông khoáng, nhưng nó buộc phải sáng tảo ngôn ngữ hàm súc, cấu tứ chặt chẽ. Thơ Đường có phong độ một tâm hồn á Đông, gắn tâm tư tình cảm con người với thiên nhiên đất nước. Tình cảm biểu hiện trong thơ Đường muôn màu muôn vẻ, có khi bồng bột, bay bổng, có khi thâm trầm, uẩn khúc quanh co. Có thể nói, nó như những dòng thác đổ dồn về một con sông lớn cuồn cuộn.
Một bại thơ năm cho tuyệt cú vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ, nhưng càng ít chữ, càng phải cân nhắc tho nên từ ngữ ở thơ Đường luật phần lớn được sử dụng rất đắt. Tuy hàm súc như vậy nhưng thơ Đường luật không phải là những lời thuyết lí khô khan. Người ta lấy làm kinh ngạc là một bài thơ chỉ ngắn gọn hai mươi chữ mà lại là một bức tranh có cả sương, trăng, cử chỉ ngẩng lên cúi xuống vì nhớ quê:
TĨNH DẠ TỨ
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sơn.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương .
(LÝ BẠCH)
CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH
“Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương
(Lương Duy Thứ – âm vang thơ Đường)
Đọc một bài thơ Đường, nhất là loại tứ tuyệt bốn câu 5 hoặc 7 chữ, có khi
người ta phải . lắng nghe cái âm vang của thơ Đường, tưởng tượng ra những đường nét và màu sắc của nó, để có thể cảm nhận hình tượng chung của bài thơ như kiểu nghe một bản xô-nát chứ không phải dựa vào những chi tiết ngôn ngữ cụ thể của bài thơ. Mặt khác, do truyền thống gắn bó giữa thi, nhạc và họa, một bài thơ hay bao giờ cũng gợi lên những âm thanh và đường nét, chính cái đó đã tạo nên âm vang sâu. xa của thơ Đường. Trong cách cảm nhận, thơ Đường chú ý khám phá sự thống nhất, sự giao cảm mà trước hết là sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên. Trong cách cấu tứ, cái “tôi” trữ tình thường hoà lẫn vào thiên nhiên và ngoại cảnh. Trong cảm biểu hiện, ba yếu tố thi, nhạc, họa thường quấn quyện làm một. Về cấu trúc, bài thơ thường gọn nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả, ý tại ngôn ngoại.
* Tính đa nghĩa:
Tính đa nghĩa là thuộc tính chung của văn chương và ở một số trường hợp
đặc biệt thì nó được khai thác tối đa cho nên nếu chỉ đọc lướt qua thì chưa thể biết được tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như trường hợp của Lý Bạch trong “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” có câu. “Yên hoa tam ,/Nguyệt há Dương Châu (Giữa’ mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng), bốn chữ yên hoa tam nguyệt” được dùng để chỉ thời gian, với ý nghĩa là tháng ba, vào mùa xuân. “Yên hoa” là “hoa và khói”, thường chỉ khói sóng trên sông, khói sương mù – một hình tượng nghệ thuật đầy gợi cảm, làm thức dậy bao nỗi niềm tâm sự của thi nhân. “Yên hoa” còn có nghĩa là cảnh đẹp mùa xuân. Trong thơ Đường đây là một cách làm phổ biến.
Một ví dụ khác là bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ: “Ngọc lộ điêu thương phong
thụ lâm 1 Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm . “Ngọc lộ” – móc ngọc, hình ảnh ẩn dụ nói về hạt móc long lanh như hạt ngọc. “Ngọc lộ” đã làm héo hon, điêu tàn cả một rừng phong bao la. Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã. Rừng phong còn là một biểu tượng của mùa thu phương Bắc.Với hình ảnh ẩn dụ và nhân hoá với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm), Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt.
. Tính hàm ẩn
( Dung lượng lớn những ý nghĩ, . tình cảm mà người viết không viết ra, nhưng người đọc có thể tự mình suy ra được (tính hàm ẩn).
Nghĩa hàm ẩn là nghĩa không lộ ra ngay trên câu chữ mà là nghĩa được suy ra , / nghĩa tường minh bởi một căn cứ nào đấy. Thơ giới chung) thường dừng ngôn ngữ ẩn dụ, mà ngôn ngữ ẩn dụ trong thơ thường có hệ quy chiếu khác biệt với ngôn ngữ văn viết, ngôn ngữ trao đổi thường ngày. Nếu trong văn viết thường dừng ngôn ngữ cụ thể để vẽ thật đầy đủ, thật chi tiết một bức chân dưng thì ngược lại, thơ đường thường dùng ngôn ngữ ẩn dụ mang nhiều tính ước lệ nhưng lại thật cô đọng để vẽ nên những nét phát họa với những điểm chấm phá trừu tượng nhưng lại mang sức liên tưởng, biểu cảm cao. Chính vì vậy mà người ta nói “ý tại ngôn ngoại” để nói về tính hàm súc trong sự biểu đạt của thơ ca. Chính vì thế trong “Hoàng Học lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” Lý Bạch đã viết:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
(Bạn’ từ lầu Hạc lên đường)
Người ra đi: “cố nhân” – bạn cũ gợi tình cảm nhớ thương, lưu luyến, tha thiết, mang hàm nghĩa về mối quan hệ gắn bó tha thiết giữa bạn với bạn. Hay trong “Thu hứng” của Đỗ Phủ có viết:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm .
Cúc, dòng lệ, con thuyền lẻ loi (cô chu), vườn cũ, dao thước, tiếng chày đập
vải vừa mang tính hiện thực, vừa mang màu sắc ước lệ tượng trưng, rất giàu chất trữ tình.’ Mùa thu trước, Đỗ Phủ ở Vân An, mùa thu này, ông ở Quỳ Châu. Hai mùa thu trôi qua, hai lần nhìn hoa cúc nở, cả hai đều rơi nước mắt: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lại Đã bao lần nhà thơ gửi gắm hi vọng được về quê bằng một chiếc thuyền, nhưng chiếc thuyền vẫn bị buộc chặt ở bến sông, nơi đất khách quê người: “Cô chu nhật hệ cố viên tâm”. Nói về nỗi nhớ quê nhà, nỗi buồn li hương thì đó là hai câu thơ tuyệt cú.
* Kết cấu theo kiểu đứt – nối:
Kết cấu theo kiểu đứt nối là tạo những khoảng trống tương đối, những bước
“hẫng’ đầy dụng ý trong dòng vận động của mạch thơ. Đứt là dừng lại không miêu tả, chuyển sang ý mới mà không liên hệ với cái cũ. Nối nghĩa là qua cái ngừng ngắt, không nói đến ấy, lại thấy mối liên hệ bền chắc bên trong của tứ thơ và bước nhảy vọt chuyển hẳn sang cấp độ mới cao hơn sâu hơn về hình tượng ý tưởng thơ. Lấy ví dụ trong một bài thơ tứ duyệt của Lý Bạch tặng Uông Luân, bài này có 3 câu đầu như sau:
Lý Bạch thừa chu tương dục hành
Hốt văn ngạn thương đạp ca thanh
Đào hoa đầm thuỷ thâm thiên xích
tả lại một cuộc tiễn đưa lưu luyến giữa nhà thơ Lý Bạch và bạn. Một bất ngờ
thú vị và cảm động: nhà thơ sắp dứt áo ra đi lại được thấy bạn nặng tình ra tận nơi đưa tiễn. Nhưng câu thơ thứ ba dường như lại ngoặc sang một hướng miêu tả khác một dối tượng khác (đầm đào hoa) và có vẻ không liên quan gì tới tình bạn mà tác giả đã nêu lên từ đầu. Rõ ràng ở đây có sự đứt đoạn đáng kể, gây bất ngờ cho đọc giả. Và nối lại ở câu: ‘
“Nước đầm nghìn thước Đào Hoa
Uông Luân tình bác tiễn ta sầu nhiều .
Bỗng thấy sự can thiệp của hình ảnh hoa đào ở đây trở nên có lí khi được
đem so sánh với độ nông sâu của tình bạn. Hình ảnh Đào Hoa như một sự lắng đọng cần thiết cho tâm tưởng. Từ đây nhà thơ không nói đến cái nhìn thấy được của tình bạn nữa mà chuyển sang nói đến cái không thấy được. Chính ấy mới là cốt lõi thân tình. Trong thơ Đường những bước “hẫng bất ngờ này không phải là hiếm. Quả thực sự hàm súc là một phẩm hạnh cao quý của thơ ca.
TÌM HIỂU MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐỌC THÊM:
“Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu), “Khuê oán” (Vương Xương Linh), điểu minh giản” (VƯƠNG DUY)
O HOÀNG HẠC LÂU
HOÀN CẢNH:
Thôi Hiệu sống vào thời nhà Nguyên, Đường Huyền Tông, thời kì đất nước
Trung Hoa phát triển phồn vinh và thịnh trị. ông cũng được chứng kiến thời kì suy thoái của triều đình Đường Minh Hoàng. Những năm đầu cuộc đời nhà thơ được chứng kiến cảnh phồn vinh thịnh trị của đất nước,’ còn giai đoạn cuối đời Đường, khoảng từ năm 743 trở đi, ông phải chứng kiến cảnh sống khổ cực của nhân dân bởi giai cấp thống trị ăn chơi xa hoa, trụy lạc, triều đình rối ren, lục đục, không còn cái cảnh:
ấp nhỏ còn đóng với vạn nhà
Kho công bục tư đầy nứt vách
Gạo men mục thếch thóc vàng pha
Chín châu đường sá im lang sói
Đi đâu chẳng phải chọn giờ ra
Lục vải ùn ùn xe chở đến
Trai cày gái dệt rộn gần xa .
Những đặc điểm xã hội này có thể là một trong những nguyên nhân làm nảy
sinh nguồn cảm hứng nhà thơ khi viết ‘(Hoàng Hạc lâu . Lầu Hoàng Hạc là
một di tích lịch sử nổi tiếng của .Trung Hoa, gắn với huyền thoại Phí Văn Vi
thành tiên. Thôi Hiệu nhân đến Hoàng Hạc lâu hoài niệm thần tiên quá khứ,
cảm khái trước hiện tại nhân thế mà viết nên bài thơ này.
ĐÊ TÀI:
Hoài cổ (Những trăn trở về cuộc đời và tiếng lòng tha thiết đối với quê hương).
NỘI DUNG CẢM XÚC:
Bốn câu đầu – Sự hoài niệm về quá khứ. không tả cái đang có mà tả về
cái đã có và đã mất. Đề cập trực tiếp đến nguồn gốc, tên gọi và định vị lầu Hoàng Hạc ở phương tiện thời gian; nói thuyền xưa nay, còn mất đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa cõi tiên và cõi tục. Chỉ có một câu tả “lầu còn ba câu kia đều tả “người xưa”.
* Câu 1 tả người xưa
* Câu 3 nghĩ người xưa
* Câu 4 ngóng người xưa .
ở hai câu đầu, ta nhận thấy ở đó có một sự di chuyển không gian. Bóng là
lầu còn hồn là cánh hạc. Khi ngôi lầu kia mất đi cái linh hồn thì nó chỉ còn lại sự lẻ bóng âm thầm. Hạc vàng bay đi đã bất tử nhưng nỗi đợi chờ đến xót xa bền vững thì đầy đau đớn. Không gian thơ vì thế mà gợi lên một trạng thái không bình thường, có một nỗi niềm chông chênh, khắc khoải trong dáng thơ Hoàng Hạc. Và cũng nhờ thế, nhà thơ đã khơi sâu được cái sức mạnh không ban giờ cạn của sự tiếc nhớ, bồi hồi. ở hai câu 3, 4 cũng là ngẩn ngơ nhưng nỗi u hoài có khác. Không hóa đá như lầu, như lớp lớp mây trắng phân vân cứ dọc ngang kiếm tìm. Ngàn năm rồi vẫn có hạc, có mây, nhưng giờ đây thì hạc đã bay, và mây còn lại ngổn ngang thương nhớ tơi bời trên bầu trời. Tất cả các hình ảnh đều nhằm diễn tả: cái đẹp như giấc chiêm bao kia đã “một đi không trở lại’? để còn đây một trống vắng vô tận, mênh mang không cùng… đó như là một nghĩ suy mang triết lí nhân sinh, triết lí về sự còn – mất, về sự vô hạn – hữu hạn của trời đất và nhân sinh.
Bốn câu sau: Sự thất vọng trước thực tại và. nỗi lòng buồn nhớ quê hương. Định vị lầu trong không gian, miêu tả thiên nhiên và trực tiếp biểu hiện tâm trạng. Cây thì xanh, và cỏ non thì mềm mượt. Trời thì già đi hàng ngàn năm với những đám mây bạc, đất thì tươi lại như trẻ thơ. Bởi đất có biết đâu những chuyện ở trên trời, ở trên cái lầu Hoàng Hạc ấy? Nó cứ như hồi sinh mơn mởn. Chính sự ngây thơ vô tình vô tội ấy của đất đã làm tăng lên nỗi đau đời ở nhà thơ về những gì còn – mất. Và trước vấn nạn hồ nghi khó hiểu kia, cánh hạc bay đã chạm vào nỗi nhớ, nhìn mây trắng trên trời và cỏ non nơi mặt đất con người lưu lạc lại thắt lòng trong nỗi nhớ quê qua vùng khói sóng lung linh như giấc mơ.
– Nhà thơ tự đặt ra câu hỏi “quê hương ở nơi nào mở rộng hơn là nơi nào để dừng chân, nơi nào là nơi có thể bình yên để sống. Đọng vọng lại ở cuối bài thơ là nỗi buồn người, cái buồn trong trẻo như sắc nắng, chứa thất tráng ca chứ không bi kịch.
* Mở: hoài cổ, đóng: nỗi nhớ quê => một vòng tròn khép kín, xoay vần trong tâm thức người vãn cảnh.
* Tiền giải tả người xưa, hậu giải.tả người nay, tuyệt nhiên không tả đến lầu
thể hiện được hoài bão, ước mơ và khát vọng của mình, một cuộc sống có thật nhiều những điều tốt đẹp bởi đó là giá trị thực của cuộc sống.
ờ câu 3, 4 ông chịu ảnh hưởng từ hai câu ca Dịch thuỷ trong Kinh Kha liệt truyện:
“Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn
Gió hiu hiu hề sông Dịch lạnh lùng
Tráng sĩ ra đi hề không trở lại)
NGÔN NGƯ- Làm nổi bật sự đối lập giữa cái ra đi mãi mãi với cái còn lại, cái vô cùng với cái hữu hạn, cái thực với cái hư và tâm trạng hẫng hụt, nuối tiếc quá khứ.
– Giải thích tên lầu và định vị lầu trong không gian.
*Mối quan hệ giữa các từ.
“Hoàng Hạc” ở câu 1 với “Tích nhân” nhằm nhắc tới vẻ đẹp huyền thoại
của lầu Hoàng Hạc
“Hoàng Hạc ở câu 3 với các từ “Hoàng Hạc” ở trên và với từ “Bạch vân” ở dưới:
+ Làm rõ giữa xưa và nay.
+ Làm rõ giữa cái hữu hạn và cái vô cùng. ~
+ Làm chơ vơ, mây trắng bồng bềnh.
– Làm rõ thân phận trôi nổi lênh đênh của kẻ tha hương.
– Từ ngữ gợi hình, hình ảnh mang ý nghĩa biểu tương:
– Hạc vàng và người xưa: những cái tốt đẹp đã qua đi làm người ta tiếc nuối.
Hạc vàng: biểu tượng của sự giàu có thịnh trị đã ra đi và không trở lại, chỉ còn lại những dấu ấn mà thôi.
Nhãn tự: chữ “sầu kết đọng trọng tâm – gói trọn nỗi đau của cả một đời người, một thời đại.
* Phá cách:
Câu l: chữ thứ 2 và 4 cùng thanh (nhân-thừa)
Câu 2: chữ thứ 4 của câu 2 và câu 1 cùng thanh (dư-thừa)
Câu 3: 4-2 cùng thanh (khứ-hạc), 3 chữ cuối câu đều là tiếng thanh trắc (bất-
phục-phản)
Câu 4: 4-3 cùng thanh (tải-khứ), 3chừ cuối câu đều là tiếng thanh bằng (không-du-du)
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đặt như thế, tất cả những sự sắp xếp này
đều mang dụng ý nghệ thuật: Theo lệ thường, “khtf (động từ) không thể đối với .
câu,, (danh từ), song nhà thơ Thôi Hiệu vẫn cứ làm thế, bởi vì diễn đạt cái đi xa, đi mãi không gì bằng động từ và diễn đạt cái còn ở lại không gì bằng danh từ Sự đối lập giữa 3 thanh trắc liên tiếp với 3 thanh bằng liên tiếp làm nổi bật sự đối lập cái đi mất và cái còn lại mãi mãi. Việc dùng 3 thanh phù bình liên tiếp gợi lên hình ảnh những đám mây lơ lửng trên tầng cao.
O KHUÊ OÁN
HOÀN CẢNH:
Từ nhận thức thay đổi cùng với những điều trông thấy ở thời đại lúc bấy giờ
bao cảnh li tán và lầm than do chiến tranh gây ra cho nhân dân, nhất là những . con người thấp cổ bé họng, không chút quyền lợi gì trong xã hội phong kiến.
* Điệp từ Hoàng Hạc 3 lần:
ĐỀ TÀI: chiến tranh và phụ nữ
3.’ NỘI DUNG CẢM XÚC:
Chồng thì đang ở chốn biên cương nhưng nỗi trống vắng này hình như không đáng kể vì có lẽ bao nhiêu người như nàng cũng có chồng đi xa như thế. Sự “bất tri sầu còn là vì không khí ngày xuân cộng với cái đẹp nhan sắc của nàng mà hơn hết vốn dĩ nàng vẫn say mê theo một quan niệm tưởng chừng như rất bình thường trong xã hội bấy giờ: muốn chồng có công danh, sự nghiệp rạng rỡ không bằng khoa cử thì cũng bằng chinh chiến trận mạc. Ngày xuân trang điểm lên lầu đều là những chuyện thường tình, những từ ngữ, hình ảnh này xuất hiện không mới trong thơ cổ, nó nhằm biểu hiện vẻ đẹp uyển chuyển, duyên dáng khi miêu tả động tác, phong thái của người khuê phụ. Đối lập với nhan đề, cách nói này tạo thế cho việc biểu hiện một cách đột xuất, rõ nét và tự nhiên quá trình diễn biến tâm lí của người thiếu phụ.
Câu thơ thứ 3. “Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc’ có lẽ là câu thơ quan trọng nhất của bài, ví như một chiếc bản lề nghệ thuật làm đà cho sự xuất hiện của sắc xanh dương liễu, màu xanh của sự sống, khát vọng sống, đó chính là chiếc chìa khóa của bài thơ dẫn đến sự liên tưởng, sự chạnh lòng. Chữ “hốt” thể hiện tâm trạng bất ngờ của nàng trước sức sống của dương liễu mùa xuân, nàng cũng căng tràn sinh lực như cây liễu xình kia, nhưng chúng có đôi, có cặp, ngả vào nhau trong gió la đà, còn. nàng, cô quạnh trong cái đẹp, trong vàng son, và nàng chợt nghĩ đến quy luật của đời người, nàng tiếc xuân, tiếc tuổi trẻ, tiếc đời thốt lên lời tự oán than. Không nói biệt li mà tình li biệt tự đến, không cần nói buồn mà ý buồn lại tăng lên nhiều lần.
NGÔN NGỮ:
Hình ảnh tượng trưng, hàm súc, đa nghĩa: liễu chỉ người con gái đẹp đang ở
tuổi xuân ngời, còn mang ý nghĩa chỉ sự li biệt; cây dương liễu gợi nhớ phút chia tay, gợi những suy nghĩ về tuổi xuân đang tràn trề sức sống và sẽ qua đi. Sử dụng phép vẽ mây nẩy trăng, giữ được lời ít mà ý nhiêu, lời hàm súc chứa ý mênh mang, nên không thấy có lời nào khuê oán mà rất nhiều khuê oán. Giọng thơ tự thoại lặng lẽ mà xót xa, vần điệu gam trưởng gây xúc động mạnh kbiấn người ta xót thương. Hình thức “đốn ngộ” hiện ra dưới dạng hiển minh với phó từ đi kèm “hốt”.
O ĐIỂU MINH GIẢN
HOÀN CẢNH: từ quan niệm nhân sinh cộng với bối cảnh của thời đại.
ĐỀ TÀI: hình tượng hóa những con người bất động.
NỘI DUNG CẢM XÚC:
Nói động để tả tĩnh: hoa quế nhỏ, rụng không có âm thanh, người thường
không ai để ý đến nó .
Nói người nhàn ấy là chủ thuyết vô vi, là làm chủ quy luật biến đổi của
cuộc đời, là không màng đanh lợi.
-Tình và cảnh như thâm nhập, thẩm thấu lẫn nhau để tạo nên hình ảnh của nỗi lòng sâu kín. Sự xuất hiện của âm thanh và ánh sáng:
+ Trăng làm tăng vẻ huyền ảo.
+ Tiếng chim càng làm rõ hơn cái tĩnh của đêm.
– Bức tranh sơn thuỷ hữu tình, yên tĩnh nhưng không quá buồn, gợi một cuộc sống thanh thản, nhàn nhã.
Đưa ra một triết lí nhân sinh: con người bất động trước cảnh hoa rụng và trăng lên đối ngược với chim núi thấy trăng tưởng bình minh thì giật mình, hoảng hốt Trước sự biến đổi của tạo vật không có gì làm con người phải ưu tư lo lắng cả, bản thân xem cuộc sống vòng xoay, coi thường danh lợi để giữ lấy cái thiện, cái bản ngã, cái phần tốt đẹp ở con người mình.
NGÔN NGƯ:
Ngôn từ gợi ra những hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng, tạo liên tưởng để thấy được cái thần của sự vật.
Ngữ âm, nhạc điệu hài hoà, thiên về gam thứ thể hiện nội tâm sâu lắng, trầm tư
Thủ pháp đối chiếu giữa người với chim, giữa trăng với chiến.
Tìm hiểu trên nét lớn ảnh hưởng của thơ Đường tới thơ Việt qua một vài trường hóp cụ thể:
Thơ Đường,một đỉnh cao của nền văn học Trung Hoa .và tạo nên trào lưu cho nền văn học thế giới, làm xuất hiện nhiều thiên tài thơ ca để lại cho đời hơn
1000 bài thơ như Lý Bạch, đỗ Phủ. Và Việt Nam, một đất nước nằm sát với Trung Quốc, chịu ách đô hộ 1000 năm vì thế thơ Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của Thơ Đường.
Trong thơ Việt nhiều trường hợp nhan đề bài thơ hoàn toàn trùng khớp với
nhan đề một bài thơ nổi tiếng trong Đường Thi (Trường tương tư của Hàn Mặc Tử và Trường tương tư của Bạch Cư Dị), hai bài Đá Vọng Phu và Đêm thu nghe quạ tiêu của Quách Tấn như chỉ là dịch từ Hán sang Việt hai bài thơ Vọng phu thạch của Vương Kiến và Ô dạ đề của Lý Bạch. Các bài thơ sau cũng của Quách Tấn trong Mùa cổ điển: Cảm Thu, Về thăm nhà cảm tác. Một đêm mưa mùa thu, đêm thu, đêm xuân đều là những thi đề rất quen thuộc trong Đường Thi và trong bài Tư hương của Hồ Dzếnh có lời đề từ phương thảo thê thê Anh Vũ châu rút từ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, bài Trông Chồng của Thái Can để từ bằng cả bài Khuê oán của Vương Xương Linh. Phan Thanh Phước với lời đề từ cho bài Đêm Tẩn của mình là “tặng Vương Xương Linh”. Đặc biệt là Huy Nhiêm thường kí tên là Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.
Về đề tài: Mùa thu, tống biệt, chiến tranh, người phụ nữ tràn đầy trong thơ
Đường thì đối với các thi nhân, nó như nguồn cảm hứng khơi đậy sức sáng tạo của thời thế hệ. Ví dụ mùa thu từ nhà thơ nổi tiếng bên Trung Quốc đời Đường đến các nhà thơ Việt Nam như Nguyễn Khuyến (Thu âm, Thu Điếu, Thu Vịnh), Lưu Trọng Lư (Tiếng thu) hay Bích Khê (“ô! Hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông ). Tất cả đều để lại những.tác phẩm độc đáo về mùa thu. Tống biệt như ăn sâu vào trong thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, thì văn học Việt Nam các nhà thơ như Nguyễn Du, Cao Bá Quát cho nó làm đề tài cho các tác’ phẩm văn thơ của mình, đặc biệt là Thâm Tâm, ông nổi tiếng bởi “Tống biệt hành”, khi đọc người ta sẽ nhận ra thơ Đường ảnh hưởng như thế nào đối với Thâm Tâm. Nó được mệnh danh là bài thơ của sự tiễn biệt. Với nỗi niềm người lính nơi biên ải và cõi lòng người chinh phụ nơi quê nhà với phòng không chiếc bóng. Có những đại biểu xuất sắc của phái này có thể kể ra như Vương Hàn, Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Cao Thích, Sầm Tham… thì trong thơ Việt Nam cũng có một số tác phẩm chịu ảnh hưởng của đề tài này như Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn)
Các hình ảnh và ngôn từ Đường thi đột nhập một cách rộng rãi vào thơ Việt
Nam. Đặc biệt là Thơ Mới, nó như thâm nhập vào hầu hết các thể loại. Từ những câu thơ luật Đường của Quách Tấn: “Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu (Cảm thu) cho đến những câu thơ theo thể 7 chữ theo lối mới: “Có cô dâu mắt nhìn sông nước Sực nhớ quê nhà giọt lệ tuôn (Điệu huyền – Lưu Trọng Lư). Những câu thơ theo thể 8 chữ: “Chim so bay, cây cũng chắp liền cành (Mưa xưa – Xuân Diệu). Những câu thơ theo thể sống thất lục bát truyền thống: ((chừ đây đêm hãy đầy sương, 1 Con thuyền còn buộc trăng suông lạnh lùng. 1 phút giây ấy ta mình ngây ngất, 1 Bỗng con thuyền buộc chặt rời cây (Giang hồ .- Lưu Trọng Lư). Thể 5 chữ: “Từ ấy anh ra đi, 1 Em gầy hơn vóc liễu, lem buồn như đám mây, 1 Những đêm vầng trăng thiếu (Nhớ nhung – Hàn Mặc Tử)… . Hình ảnh “ngọn nến” “con thuyền buộc chặt” “sầu lau lách”… trong thơ Đường đều đã từ lâu được nhập vào kho thi liệu dân tộc. Minh chứng cho việc chất liệu Đường Thi đã bám rễ rất sâu trong văn học Việt.
Các ngôn ngữ và hình ảnh Đường thi tồn tại trong thơ như những điển tích,
điển cố có giá trị làm cho lời thơ hàm súc, “ý tại ngôn ngoại”. Người đọc có thể cảm nhận được cái bâng khuâng, lưu luyến của cảnh tiễn biệt trong Tống biệt hành mà không cần biết đến những “hoàng hôn”, “bến sông)’ tràn ngập trong Đường thi. Tuy nhiên, chỉ khi người đọc đặt các hình ảnh trên vào trong mạch của những Dịch Thuỷ tống biệt (Lạc Tân Vương, Thu giang tống biệt (Bạch Cư Dị), Tống khách quy Ngô Lý Bạch) thì mới thật sự cảm nhận hết cái dồn nén, chất chứa của tình người trong những câu hỏi tu từ hàm ý khẳng định:
“sao có tiếng sóng ở trong lòng
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”
(Tông biệt hành)
Cũng như thấy, câu thơ của Vân Đài: “Gió xuân đâu biết cho lòng thiếp 1 ôm ấp bên mình thiếp mãi cho
Cơn gió ấy sẽ khó mà có được ấn tượng sâu đậm nếu như nó không làm ta
liên tưởng tới ngọn gió xuân đã từng thổi trong thơ Lý Bạch: “Xuân phong bất tương thức, Hà sự nhập la vi (Xuân tứ).
Chính nhờ vào sự liên tưởng được gợi, nên qua hình tượng “gió xuân” mà
“chút hương sắc dục” trong lời thơ Vân Đài, đã được Hoài Thanh – Hoài Chân rất tinh tế nhận ra.
‘(Mây biếc về đâu bay gấp gấp/con cò trên ruộng cánh phân vân (Thơ duyên). Hình ảnh “áng mây”, “cánh cò” thường gặp trong thơ Đường nhưng dưới ngòi bút của Xuân Diệu lại đầy sáng tạo, độc đáo, mới mẻ. Nếu trong thơ xưa khi
miêu tả mây mùa thu thường là “mây đùn cửa ải xa” như Đỗ Phủ hay mây đang trôi nhàn nhã cô vân độc khứ nhàn” như Lý Bạch miêu tả, thì ở đây, mây của Xuân Diệu lại “bay gấp gấp” với vẻ hối hả nhưng chẳng biết về đâu, đi đâu? Cũng là cánh cò, nhưng cánh cò của Vương Bột thì đang cô đơn cùng bay với ráng chiều vừa sa xuống: lạc hà dữ cô lộ tề phi/Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc đằng Vương Các tự) còn cánh cò của Xuân Diệu lại là cánh cò đang phân vân”, ngập ngừng. lưỡng lự, nửa muốn đậu, nửa muốn bay và nếu bay thì không biết bay cao hay thấp, gần hay xa?
Cái hay của -việc sử dựng ngôn ngữ và hình ảnh Đường thi của các nhà thơ Việt nam là làm cho ngôn ngữ và hình ảnh vẫn giữa được nguồn gốc của mình, còn về cơ cấu được cấy vào một chỉnh thể nghệ thuật mới mà chứng được hấp thụ, bổ sung thêm những âm giọng mới, đa âm hơn, gây ra nhiều liên tưởng, màu sắc mới.
Về thể thơ thì cả ba thể thơ Đường đều được du nhập vào Việt Nam, trong đó Đường luật để lại âm vang lâu dài và sâu rộng nhất. Thế hệ trước đã tuân thủ hệ thống quy tắc phức tạp: Luật, niêm, đối, bố cục, ngoài còn có nhiều sáng tạo trong lúc vận dụng khiến cho thơ Đường Luật, từ một thể thơ ngoại nhập dần dần trở thành một thề thơ mang đậm tính dân tộc. Thơ Đường luật khó diễn tả được đầy đủ, sinh động tình cảm của con người hiện đại vì chịu sự gò bó của những quy tắc chặt chẽ nhưng đối với thơ tứ tuyệt Đường luật, khác với ở Trung Quốc nó còn sức sống mạnh mẽ ở nước ta.
Thể loại thơ tứ tuyệt xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, bắt đầu có mặt từ thời
Lý Trần. Về thơ tứ tuyệt Lý – Trần phải kể đến bài thơ Nam quốc Sơn Hà, tương truyền của Lý Thường Kiệt: “Nam Quốc sơn hệ nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thời Như hà nghịch lỗi lai xâm phạm? Nhử đẳng hành khang thủ bại hư./ (Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Sách trời phân giới định rạch rời Giặc dữ vì sao tới xâm phạm/ Tan tành lập tức bay chờ coi!)
Bài thơ chỉ có 4 câu 28 chữ nhưng mang nét tiêu biểu của thể loại thơ tứ tuyệt Hình thức nhỏ bé chuyển tải nội dung có tính khái quát cao. Thể hiện được nội dung: lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Nhờ vào đặc điểm của thể thơ này mà bài thơ Ngôn hoài của Không Lộ Thiền sư bày tỏ được nỗi lòng, hoài bão của nhà thơ khi được sống một cuộc sống an nhàn ẩn dật, gắn bó với làng quê, thôn dã. Ngoài hai bài thơ tiêu biểu ấy khi nói đến thời Lý – Trần, lúc văn học viết ra đời, thơ tứ tuyệt đã có mặt với nhiều bài thơ hay đặc sắc như. Hưu hướng Như Lai của Quảng Nghiêm Thiền sư, Cảm hoài của Vương hải Thiền, Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông, Tống Phạm Công Sư Mạnh bắc sử của Lê Quát, Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải… Đối với Nguyễn Trái, tứ tuyệt không phải là thể hiện nổi bật nhất trong thơ của ông, nhưng trong tập thơ “ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập của ông cũng có những bài thơ tứ tuyệt rất hay như bài cây chuối, hoặc là:
“Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh / Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình /
Nhất chủng tiêu quan chính phụ oán / Tổng tương li hận nhập thu thanh ‘ (Thôn xã thu Châm) (Cả sông chốn nào cũng nghệ tiếng thình thình / Trăng đêm riêng kinh động lòng người làm khách lâu ngày Một nỗi lòng của người chinh phụ ở Tiêu quan Thảy đều là đêm mối hận biệt ly ngụ vào tiếng )
Ngoài tứ tuyệt được viết bằng chữ Hán thì đến đây thể thơ tứ tuyệt được đổi mới bằng những sáng tác chữ Nôm tiêu biểu là Hồ Xuân Hương. Bài thơ của bà mang cảm hứng nhân đạo sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ. Một số bài tiêu biểu của Hồ Xuân Hương là: Đề đền Sầm Nghi Đông, Phường lòi tói; ốc nhồi; Quả mít; Đồng tiền hoẻn; Dỗ người đàn bà khóc chúng. Cái kiếp tu hành, Mời trầu. . .
Nhờ vào các thể vặn của Tàu đặc biệt là thể Đường Luật nước ta đã có một
nền quốc âm phong phú phát đạt với các thể loại văn vần, phú, văn tế… . Các thể văn nước ta ảnh hưởng Trung Hoa có Vận văn và Biền văn. Vận văn gồm thơ, phú và văn tế. Biền văn: văn không có vần mà có đối, những câu đối tứ lục và kinh nghĩa. . .
Quá trình phát triển của văn học luôn gắn liền với sự kế thừa và tiếp thu có
chọn lọc, nhằm phát huy những giá trị đích thực của văn học truyền thống. Một khi văn học nghệ thuật trở thành tài sản tinh thần chung của nhân loại thì sự tiếp thu, học hỏi hay ảnh hưởng lẫn nhau vì thế mà qua ảnh hưởng đã nêu trên thì mọi người có thể biết được thơ Đường đã ảnh hưởng tới thơ Việt Nam như thế nào . .
Thực hành phân tích tác phẩm từ góc độ đặc trưng thể loại thơ Đường và cá tính sáng tạo của tác giả:
O BàI l:
Người xưa khi nói đến mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của sự vật
thường nói “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Trong văn học, điều này càng được nhắc đến thường xuyên hơn. Sự vĩ đại của một nhà văn bao giờ cũng được làm nên bởi giá trị và vị trí của tác phẩm do ông ta sáng tác trong lần sử văn học. Sự vĩ đại đổ không hoàn toàn phụ thuộc vào số lượng tác phẩm nhiều hay ít, mà quan trọng là độ kết tinh tài năng và tư tưởng của nhà văn trong mỗi tác phẩm. Có người sáng tác rất nhiều nhưng chưa hẳn đã có những tác phẩm xuất sắc. Có người sáng tác một vài tác phẩm nhưng lại được lưu danh thiên cổ. Điều đó phụ thuộc ở khả năng thăng hoa cảm xúc. Điều này giải thích tại sao có những nhà văn số tác phẩm được nhắc đến không nhiều nhưng họ lại có một tác phẩm mà người ta không thể không nhắc đến khi nới đến một thời kì văn học nào đó. Chẳng hạn: nói đến đỉnh cao văn học Trung Hoa di sản thơ Đường – không thể không nhìn thấy Thôi Hiệu, dù hành trang túi thơ của ông rất nhẹ so với nhiều nhà thơ cùng thời, chỉ có khoảng 40 bài trong đó có một Hoàng Hoe lâu, bài thơ – theo giai thoại – đã khiến thi tiên Lý Bạch phải gác bút mà rằng:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
(Trước mắt bày ra cảnh đẹp khôn tả xiết
Trông đã thấy thơ Thôi Hiệu đề rồi)
Thôi Hiệu sống vào thời Khai Nguyên, Đường Huyền Tông, thời kì đất nước
Trung Hoa phát triển phồn vinh và thịnh trị. ông cũng được chứng kiến thời kì suy thoái của triều đình Đường Minh Hoàng. Những năm đầu cuộc đời, nhà thơ được chứng kiến cảnh phồn vinh thịnh trị của đất nước, cảnh phồn vinh được tái hiện trong hồi ức của thánh thơ Đỗ Phủ trong bài “ức tích” (Nhớ xưa):
“Nhớ trước Khai Nguyên thời thịnh trị
ấp nhỏ còn đông tới vạn nhà
kho công bục tư đầy nứt vách
Gạo men mục thếch thóc vàng pha
Chín châu đường sá im lang sói
Đi đâu chẳng phải chọn giờ ra
Lụa vải ùn ùn xe chở đến
Trai cày gái dệt rộn gần xa .
Còn giai đoạn cuối đời, khoảng từ năm 743 trở đi, ông phải chứng kiến cảnh
sống khổ cực của nhân dân bởi giai cấp thống trị lớp trên ăn chơi xa hoa, truy lạc, triều đình rối ren, lục đục. Những đặc điểm xã hội này là có thể là một trong những nguyên nhân nảy sinh nguồn cảm hứng của nhà thơ khi viết Hoàng Hạc lâu.
Lầu Hoàng Hạc là một di tích văn hoá nổi tiếng nằm ở phía Tây Nam huyện
Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc. Nằm trên bờ sông Tỉ trung Giang, lầu Hoàng Hạc còn là một danh lam thắng cảnh sơn thuỷ hữu tình, nơi mà Lý Bạch đã có cảm hứng viết về cuộc chia tay với _cố nhân. Lầu Hoàng Hạc đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều thi nhân, trong đó có Thôi Hiệu. Với Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã có ~ rất nhiều sáng tạo trong việc sử dụng linh hoạt các ‘ quy tắc niêm luật vốn rất chặt chẽ của thơ Đường để thể hiện thành công một đề tài không xa lạ với thi ca cổ điển – tâm sự hoài cổ. Nhà thơ đã thổi linh hồn vào lầu Hoàng Hạc, nhắc lại chuyện người xưa để thể hiện một quan niệm nhân sinh sâu sắc. Là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú có sự phá luật ở nhiềucâu thơ, những phá cách ấy đều mang đến giá trị nghệ thuật và khả năng truyền tải nội dung tư tường cho bài thơ. Về mặt nội dung, nếu lấy đối tượng miêu tả là lầu Hoàng Hạc, có thể chia bố cục bài thơ thành hai phần. Bốn câu thơ đề cập trực tiếp đến nguồn gốc, tên gọi và định vị lầu Hoàng Hạc ở phương diện thời gian.
Phấn này chủ yếu nói chuyện xưa – nay, còn – mất. Bốn câu sau định vị lầu
trong không gian, miêu tả thiên nhiên và trực tiếp biểu hiện tâm trạng. Cảnh và tình trong bài thơ được phân chia theo một bỗng bất thường. Thông thường bài thơ thất ngôn bát cú trữ tình phong cảnh được chia thành hai phần, phần đầu tả tình, phần sau tả cảnh. Còn bài thơ này, hai câu luận thuần tuý miêu tả cảnh thiên nhiên nhìn từ lầu Hoàng Hạc.
Trước một di tích lịch sử có khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, nhà thơ đã
nhớ đến tích xưa, đó là huyền thoại về sự ra đời của lầu Hoàng Hạc. Hai câu thơ đầu là một sự xác nhận hiện thực:
Tích nhân dư thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút,
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi.)
Câu thơ dịch của Khương Hữu Dụng đã làm toát lên tâm sự nuối tiếc của người đến thăm di tích – chủ thể trữ tình của bài thơ nhưng chưa chuyển tải ‘ được âm điệu gợi cảm của câu thơ. ở cặp câu đề này có sự đối nhau rất chỉnh, đó là sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, inh nhân – thử địa, hoàng hạc khứ -Hoàng Hạc lâu. Theo luật thơ Đường, đây là một sự phá cách. Nhưng với sự đối ngẫu trong một “liên” này, câu thơ đã truyền tải được tâm trạng của nhân vật trữ tình, đó là sự hẫng hụt, nuối tiếc. Nuối tiếc một điều quý giá đã qua và không bao giờ trở lại nữa. Đến hai câu thực, tâm sự nuối tiếc ấy lại tiếp tục được nhấn mạnh:
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du .
(Hạc vàng một đã đi, đi biệt,
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi).
Vẫn nói chuyện hạc vàng bay đi và không trở lại nhưng ở đây không chỉ có
sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại mà còn có sự đối lập giữa cõi tiên và cõi tục. Hạc vàng đã bay về cõi tiên nên nơi đây, dưới còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, trên trời mây trắng bay chơi vơi, dường như còn mong nhớ tiếc nuối điều gì đó. Bốn câu thơ đầu tập trung tả cảnh và lí giải tích lầu Hoàng Hạc. Bàn chuyện xưa và nay để thể hiện tâm trạng, nghĩ suy. Đó là một nghĩ suy mang triết lí nhân sinh sâu sắc – triết lí về sự còn – mất, về sự vô hạn và hữu hạn của trời đất và nhân sinh. Cái gì đã qua đi thật khó trở lại, thời gian cũng vậy. Bốn câu thơ đầu, tác giả phá luật rất nhiều. Trước hết, trong ba câu thơ đầu tác giả lặp tới ba từ “hoàng hạc” mà lặp từ vốn là điều kiêng kị trong thơ Đường. Nhưng sự lặp lại ở đây tạo nên .hiệu quả .thẩm mĩ cho ý thơ. Hạc vàng là biểu tượng cho những điều quý giá và đẹp đẽ nhưng không trở lại nữa. Nhắc lại nhiều lần như vậy làm nổi bật tâm trạng tha thiết của con người đối với những điều quý giá đã qua. Câu thơ thứ tư sử dụng tới 5/7 thanh bằng, nhất là ba thanh phù bình (không du du) ở cuối câu đã gợi tả rất thành công cái cảm giác hẫng hụt và tiếc nuối. Đồng thời có khả năng gợi hình tượng, thể hiện vẻ ngưng trệ như không muốn trôi đi của những đám mây. Mặc dù nói đến sự tích lầu Hoàng Hạc nhưng nổi bật lên trên câu chuyện ấy là tâm trạng nuối tiếc, hẫng hụt của nhân vật trữ tình trước chuyện còn – mất của cuộc đời. Sự đối lập “hoàng hạc khứ” “Hoàng Hạc lâm và đối rập thanh giữa “bất phục phẩm. – .,không du dư’ ở bốn câu thơ đầu có tác dụng rất lớn trong việc truyền tải nội dung cảm xúc của thi nhân, mặc dù cả hai phép đối này đều là sự phá cách của luật thơ Đường. Qua đây cho thấy: với thơ ca cổ điển đời Đường, điều quan trọng không phải bàỉ thơ đúng luật hay không, mà quan trọng hơn là ở tài năng vận dụng của người nghệ
sĩ Khi tư tưởng đã chín muồi, cảm xúc đã trào dâng thì những quy tắc của luật thi sẽ là nền tảng để thi nhân sáng tạo. Vận dụng sáng tạo và linh hoạt những quy định niêm luật vốn rất chặt chẽ và cân đối của thơ đường có thể tạo nên những thi phẩm bất hủ. Giá trị nghệ thuật của một bài thơ phụ thuộc vào tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Với khả năng này, Thôi Hiệu đã sáng tạo nên một thể thơ được gọi là “Thôi’ thể”. Điều ấy chứng tỏ rằng trong sáng tạo nghệ thuật cần bản lĩnh của người ‘nghệ sĩ.
Sau hai cặp câu đề, thực là cặp câu luận; kết. Bốn câu cuối cùng có thể coi là
phần thứ hai của bài thơ. Thông thường đây là phần tả tình của một bài thơ Đường luật. Hai câu kết thì “tình” biểu hiện rất rõ, nhưng câu luận lái có vẻ là một câu tiếp tục tả cảnh. Nếu bốn câu đầu tả cảnh gần và thiên về suy tư thì hai câu luận lại có vẻ là tả thực. Đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp xưng quanh được nhìn từ lầu Hoàng Hạc:
“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
(Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời).
Lầu Hoàng Hạc ở phía Nam sông Trường Giang, thành phố Hán Dương ở bờ bắc, bãi Anh Vũ nằm giữa sông Trường Giang, từ lầu Hoàng Hạc nằm xuống
sông Trường Giang, bãi Anh Vũ nằm bên trái. Đứng từ lầu Hoàng Hạc vào ngày trời quang mây tạnh có thể nhìn rõ thành phố Hán Dương và bãi Anh Vũ. Vậy, là hai câu luận nhưng lại tả thực và lại có sự đối ngẫu. Câu thơ mở ra một không gian rộng và sáng trong. Một cảnh cõi trần thật đẹp, có ánh nắng soi xuống dòng sông như một tấm gương khổng lồ với hàng cây tươi tốt soi bóng. Giữa mặt sông sáng trong ấy là màu xanh tươi mơn mởn của cỏ cây mùa xuân. Sau những giây phút đắm chìm cùng huyền thoại, nhân vật trữ Linh lại trở về với hiện thực. Và đã tạo nên một bức hoạ thật đẹp. ‘Bức hoạ về một lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng Trường Giang cùng với hình ảnh của cây cối, của cỏ xanh. Tưởng cảnh đẹp như cõi thiên thai vậy thì lòng người phải thanh tĩnh. Sự nuối tiếc cái đã qua rồi cũng phải nhường chỗ cho niềm vui bởi có cảnh tiên trước mắt. Thế nhưng tâm trạng thi nhân lại chuyển đổi đột ngột:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thể
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
hoàng hôn về đó, quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.)
Hai câu kết tạo ra sự đối lập với hai câu luận. Đó là sự đối lập giữa không gian thực và không gian tâm tưởng. Dường như thời gian có sự chuyển động, từ khi ánh nắng còn chan hoà đã chuyển sang buổi hoàng hôn mờ khói. Có vẻ gì đó thật đột ngột. Nhưng nếu tìm hiểu sâu hơn một chút sẽ thấy mạch cảm xúc thơ hoàn toàn hợp lôgíc. Trở lại một chút với đặc điểm thơ ca cổ điển, các nhà thơ Đường vốn có thói quen sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng, nhất là hay dùng hình ảnh thiên nhiên để gợi tả tâm trạng. Hoảng hôn nhớ nhà” là một tứ thơ quen thuộc của Đường thi. Mỗi khi hoàng hôn xuống, hơi nước cùng sương mờ quyện vào nhau, tạo nên không gian mờ ảo, dễ gợi buồn, đây cũng chính là cái làm nên “yên hoa” trên sông Trường Giang mà chính Lý Bạch đã nói đến trong buổi tiễn đưa Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Màu tím của hoàng hôn gợi buồn, gợi nỗi nhớ quê trong lòng người lữ thứ. Vậy nỗi nhớ này quan hệ thế nào với khung cảnh tươi sáng ở hai câm thơ trên? Lôgíc của cảm xúc nằm ở từ “thê thê” (mơn mởn). Trong Sở từ có câu “Vương tôn du hề bất quy, xuân thảo sinh hề thê thê” (Vương tôn ngao du chứ không về, cỏ xuân mọc. lên chủ mơn mởn). Theo đó, có thể liên hệ rộng, mở nghĩa “cỏ mơn mởn” gợi tình quê. Có thể màu xanh tươi mơn mởn của cỏ xanh bãi Anh Vũ là một nhân tố tác động đến tâm trạng ở phần tiếp, cùng với sự chuyển động của thời gian, sự thay đổi của không gian dẫn đến nỗi nhớ trỗi dậy trong lòng nó ; ngắm cảnh. Ngoài nỗi nhớ quê hương, nếu nối với mạch cảm xúc toàn bài thơ có thể hiểu thêm rằng “hương quan hà xứ thị” không chỉ là câu hỏi “Quê hương ở nơi nào?” mà còn có thể hiểu rộng hơn là ‘Nơi nào để đừng chân, nơi nào là nơi có thể là nó bình yên để sống”. Đây là vấn đề có ý nghĩa triết lí. Bốn câu thơ cuối cùng với nội dung tả thực cảnh thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình đã làm cho câu chuyện lầu Hoàng Hạc và người xưa gần hơn với cuộc đời.
Với khả năng vận dụng linh hoạt luật thơ và sáng tạo hình ảnh ngôn ngữ,
nhà thơ Thôi Hiệu đã tạo nên giá trị hàm súc tho bài thơ. Chỉ với tám câu thơ bảy chữ, tác giả đã không chỉ nhắc đến truyền thuyết, nguồn gốc và vị trí của lầu Hoàng Hạc trong không – thời gian thực và không – thời gian ảo mà còn thể hiện được những vấn đề triết lí nhân sinh có ý nghĩa. Hoàng Hạc lâu gợi nhiều liên tưởng khác nhau cho người đọc. Tâm trạng nuối tiếc, sự suy tư của tác giả trước sự còn mất, giữa hiện tại và quá khứ, giữa cái vô hạn của vũ trụ và sự hữu hạn cua đời người đã gợi lên những liên tưởng về hiện thực xã hội. Đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời, có thể dễ dàng liên hệ tư tưởng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là tư tưởng của kẻ sĩ trong thời kì mà Thôi Hiệu đang sống, thời kì hiện thực xã hội đã đi vào rất nhiều tác phẩm của nhiều nhà thơ thời ấy, tiêu biểu là những bài “thi sử của Đỗ Phủ. Rất cớ thể bài thơ ra đời khi nhà thơ đã chứng kiến cảnh suy tàn và sa đoạ cua triều :đình nhà Đường. Thời kì thịnh trị đã trôi qua và thực tại phũ phàng đã nảy sinh ở các thi nhân tâm trạng hoài cổ. “Hạc vàng” và “người xưa” là biểu tượng cho những điều tốt đẹp đã qua đi, nó làm cho người ta tiếc nuối. Lầu Hoàng Hác được xây vào đời Tam quốc, cuối đời Hán. Tương truyền, đây vốn là một quán rượu, có một người mấy lần đến quán uống rượu nhưng đều không trả tiền, khất nợ mãi, đến lấn thứ ba thì vẽ một con hạc lên tường để tặng chủ quán. Khi vỗ tay ba tiếng con hạc nhảy ra vui đùa. Chủ quán làm thử và thấy hiệu nghiệm. Từ đó khách đến uống rượu rất đông, quán rượu trở nên giàu có. Sau đó, ông khách trở lại cùng hạc vàng bay về trời. Chủ quán tưởng nhớ công ơn nên đã xây lầu Hoàng Hạc. Theo truyền thuyết thì sự giàu có của quán rượu là do hạc vàng mang lại. Hạc vàng – biểu tượng của sự giàu có thịnh ta – đã ra đi và không trở lại, thỉ còn lại những dấu ấn mà thôi. –
Hoàng Hạc lâu là kiệt tác của Thôi Hiệu cả ở hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Nhà thơ đã có những sáng tạo rất riêng trong hình thức nghệ thuật để tạo nên một bức tranh đẹp về lầu Hoàng Hạc, qua đó thể hiện triết lí nhân sinh về cuộc đời. Đó vừa là những trăn trở về cuộc đời, vừa là tấm lòng tha thiết đối với quê hương. Và vượt lên tất cả là tấm lòng trân trọng những giá trị tốt đẹp của quá khứ, từ đó trân trọng những điều tốt đẹp của cuộc sống hiện tại. Với những ý nghĩa nhân văn cao đẹp .ấy, bài thơ đã thể hiện khao khát và ước mơ về một cuộc sống có thật
o BàI 2:
Người xưa khi nói đến mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của sự vật
thường nói “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Trong văn học, điều này càng được nhắc đến thường xuyên hơn. Sự vĩ đại của một nhà văn bao giờ cũng được làm nên bởi giá trị và vị trí của tác phẩm do ông ta sáng tác trong lịch sử văn học. Sự vĩ đại đó không hoàn toàn phụ thuộc vào số lượng tác phẩm nhiều hay ít, mà quan trọng là độ kết tinh tài năng và tư tưởng của nhà văn trong mỗi tác phẩm.Có người sáng tác rất nhiều nhưng chưa hẳn đã có những tác phẩm xuất sắc. Có người sáng tác một vài tác phẩm nhưng lại được lưu danh thiên cổ. Điều đó phụ thuộc ở khả năng thăng hoa cảm xúc. Điều này giải thích tại sao có những nhà văn số tác phẩm được nhắc đến không nhiều nhưng họ lại có một tác phẩm mà người ta không thể không nhắc đến khi nói đến một thời kì văn học nào đó. Chẳng hạn: nói đến đỉnh cao văn học Trung Hoa “di sản thơ Đường’ không thể không nhìn thấy Thôi Hiệu, dù hành trang thơ của ông rất nhẹ so với nhiều nhà thơ cùng thời, chỉ có khoảng 40 bài trong đó có một Hoàng Hạc lâu, bài thơ theo giai thoại đã khiến cho thi tiên Lý Bạch phải gác bút nói rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại .thượng đầu
trước mắt bày ra cảnh đẹp khôn tả xiết
Trông lên đã thấy thơ Thôi Hiệu đề rồi)
Lý Bạch tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, nguyên quán ở Thành kỉ, Lững Tây, sinh trưởng ở Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu. Quê hương Lý Bạch vốn là nơi có phong cảnh hùng vĩ, sơn thuỷ hồ tình nổi tiếng ở rung Quốc. Nơi đây tụ họp nhiều anh hùng hảo hán, cũng là nơi sản sinh ra những
truyện truyền kì hấp dẫn. Những nhân tố này đã ảnh hưởng nhiều đến hồn thơ phóng khoáng và ý chí kiên cường của nhà thơ, là một trong những nguyên nhân
đưa Lý Bạch trở thành nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của văn học Trung Hoa. Một đề tài rất quen thuộc trong thơ ca cổ kim. Với mọt đề tài quen thuộc nhưng tài năng của Lý Bạch đã tạo nên một biểu tượng. đẹp về tình bằng hữu. Mạnh Hạo Nhiên là bạn tri âm của Lý Bạch, trong bài thơ tặng Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch viết:
Cuộc đời Lý Bạch là cuộc đời của một con người đã “đọc nát vạn quyển sách, đi hết vạn dặm đường’t’ Lý Bạch sáng tác rất nhiều, có tới trên 1000 bài thơ và nhiều bài nổi tiếng. Thơ Lý Bạch là sự kết hợp của một tâm hồn thơ bay bổng
và một tẩm lòng luôn tha thiết tình đời. Mỗi bài thơ của ông là một tâm sự của một người luôn tha thiết được thực hiện chí quân tử, đồng thời cũng là niềm say mê cảnh đẹp của giang sơn gấm vóc. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng’ là một thành công và thể hiện khá tập trung những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ’ thuật thơ Lý Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, đề tài chia li giữa những người tri âm tri kỉ:
Ta yêu Mạnh Hạo Nhiên
Phong lưu thiên hạ biết
Là một nhà thơ có tiếng đời Đường. dù chênh nhau 12 tuổi nhưng giữa hai
nhà thơ có nhiều điểm tương đồng, đều gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời, tính tình hào hiệp coi thường công danh, thích ngao du sơn thuỷ. Mạnh Hạo Nhiên theo lời triệu cua triều đình,đi Dương Châu làm quan, chấm dứt những ngày bạn bè bên nhau, chén tạc chén thù. Bài thơ không có hình ảnh cuộc chia tay, chỉ có tâm sự của người đưa tiễn. Lầu Hoàng Hạc là một địa danh, di tích văn hoá nổi tiếng của Trung Quốc, lại là địa điểm của một cuộc chia li đầy tâm sự. Vì vậy, bài thơ ‘như một bức tranh sơn thuỷ đẹp và gợi cám. Ngôn ngữ thơ Đường vốn không phong phú nhưng lại rất hàm súc Các nhà thơ cổ điển rất chú ý đến việc lựa chọn, gọt giũa và trau chuốt ngôn tư. Hình ảnh thơ cũng thường mang tính khái quát cao với những ẩn dụ tượng trưng có giá trị hâm súc Nghệ thuật tinh xảo của ngôn ngữ và niêm luật tạo nên khả năng !’ngôn hưu hạn ý vô cùng cho bài thơ Dường. Niêm luật chặt chẽ và những quy tắc đối xứng tạo cho bài thơ vẻ đẹp cổ điển. Đặc biệt tính chất nhi trung hữu hoạt và khi trung hữu nhạc” được thể hiện rất triệt để trong thơ Mạnh Hạo Nhiên
Có thể thấy bài thơ được sáng tấc vào giai đoạn Lý Bạch đã gặp một số trắc
trở trên con đường thực hiện lí tương giúp nước của mình. Lý Bạch từng được giới thiệu vào triều đình của Đường Minh Hoàng nhưng ông đã rất thất vọng và tìm quên trong vò rượu. Tính tình phóng khoáng của Lý Bạch không hợp với cuộc sống chen chúc và đầy phức tạp chốn quan trường. Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ Đương thuộc trương phải thơ sơn thuỷ điền viên là một người phóng khoáng, hợp với cuộc song thanh nhàn nơi làng quê nhưng ông lại đến Dương Cháu làm quan. Và vì thế Lý Bạch tiễn đưa bạn trong một tám trạng đầy trắc ẩn, vua cô đơn vừa lo lắng. Bài thơ tứ tuyệt cố diện hai mươi tám chữ nhưng cô đọng cả một niềm day dứt lớn. Bài thơ có lối mở đầu quen thuộc của Đường thí, câu đề từ giới thiệu tình huống:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
(Bạn từ lầu Hạc lên đường)
một không gian đầy chất thơ Vừa là không gian thực của cuộc chia tay, vừa là không gian nghệ thuật; Câu thơ dịch đã làm mất khả năng hàm súc của ngôn từ Những từ cố nhân, xây từ truyền tải nghĩa rộng hơn nhiều so với từ “bạnh và ý nghĩa chỉ đìa điểm cuộc chia tay. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần băng của nguyên tác đã gợi một dư âm cho cậu thơ thể hiện trạng thái bịn rịn của cuộc li biệt Cố nhân xuôi Dương Châu là đi về hướng đông. Tây từ là hướng về phía tây (về phía lầu Hoàng Hạc khi dã lên thuyền xuôi hướng Dương Châu gợi hình ảnh người ra đi đang hương về lầu Hoàng Hạc. Đây thực ra là hình ảnh người ra đi trong cảm nhận của người ở lại. Hình tượng, thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ đều được tái hiện qua cảm nhận của người ở lại. Câu thơ thứ nhất là hoàn cảnh, địa điểm của cuộc chia tay, đều rất cụ thể. Câu thơ thừ hai lại mở ra không gian cuộc chia tay:
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
(Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng)
Bốn chữ yên hoa tam nguyệt” được dùng để chỉ thời gian, với ý nghĩa là tháng ba, vào mùa xuân. Đây là một buổi ‘ sáng mùa xuân, khi hơi nước quyện với sương mù tháng ba đã tạo nên hình ảnh “hoa khói”. Đây là thời gian và không gian cuộc chia tay song cũng là những biểu tượng nghệ thuật có sức gợi rất lớn. “Yên hoa” là “hoa và khói”, thường chỉ khói sống trên sông. khói sương mù. Vào mùa xuân ở Trung Quốc, đây là hình ảnh thiên nhiên không mấy xa lạ và nó đã đi vào thơ như một hình tượng nghệ thuật đầy gợi cảm, làm thức dậy bao nỗi niềm tâm sự của thi nhân, như nhà thơ Thôi Hiệu đã thổ lộ: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu’. “Yên hoa” còn có nghĩa lắm cảnh đẹp mùa xuân. Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên là hai người bạn tri âm, tính tình đều rất phóng khoáng, thích ngao du sơn thuỷ. Với hai tâm hồn nghệ sĩ ấy thì lầu Hoàng Hạc giữa mùa xuân là khung cảnh gợi bao thi hứng, đó là nơi lí tưởng để họ đàm đạo thi ca và nhân tình thế thải. Đó cũng là những giây phút mà cả hai đều thú vị Thế nhưng họ lại phải chia tay nhau. Và đương nhiên mỗi người mang trong mình một nỗi niềm tâm sự. Câu thơ thứ hai đã hé mở tâm sự của người đưa tiễn. Tâm sự ấy được bộc lộ rõ hơn ở hai câu thơ cuối:
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Đề tài là một cuộc chia li nhưng thực ra bài thơ lại là tâm trạng của người đưa tiễn, tức là chủ thể trữ tình cửa bài thơ. Vì vậy thời gian và không gian nghệ thuật của.bài thơ vừa hư vừa thực, nó thiên về thời gian và không gian tâm tưởng. Được viết theo mạch cảm xúc nên bài thơ có kết cấu hướng tâm. Tâm điểm là hình ảnh người ra đi. Cuộc đưa tiễn tinh thần này được diễn ra trong một không gian mở và một thời gian vô định. Người đưa tiễn thả hồn theo bóng người ra đi, người ở lại dõi tầm mắt theo người ra đi đến khi hình ảnh người ra đi chỉ còn là cánh buồm nhỏ rồi dần mất hút, và trước mắt chỉ còn duy nhất hình ảnh dòng Trường Giang cuộn chảy? Không gian mở ra trước tầm mắt của nhân vật trữ tình, từ lầu Hoàng Hạc hướng về Dương Châu, nơi người ra đa đang hướng đến. Nhưng chỉ lướt qua hình tượng yên hoa” để dừng lại và tạo điểm nhấn ở hình ảnh “cô phàm”. Đây là một bài thơ giàu chất hội hoạ. Bài thơ như một bức tranh xinh xắn, có chiều sâu hun hút và điểm nhấn của bức tranh hay hình ảnh sắc nét nổi trội nhất của bức tranh là hình ảnh một cánh buồm lẻ loi giữa màu xanh bất tận của nước Trường Giang và của chân trời. Cánh buồm nhỏ ấy đã ở rất xa, chỉ còn là viễn ảnh, nó thật nhỏ nhoi và cô độc giữa cái bát ngát vô tận của màu xanh nối tiếp đến tận chân trời. Câu thơ thứ ba trong bài thơ tứ tuyệt có vai trò rất quan trọng. ở câu thơ này, tác giả đã tạo nên một cặp hình ảnh đối lập, một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc của thơ ‘ ca cổ điển. Đó là sự đối lập giữa “cô phàm” và “bích không tận”. Cái nhỏ nhoi đơn độc của cánh buồm giữa sự mênh mông của sông nước đã gợi tả hình ảnh
của người ra đi. Giữa cảnh sắc nước trời mùa xuân thơ mộng, người ra đi lại hướng đến một nơi xa xôi đầy những điều bất trắc. Cô độc là tâm trạng tất yếu của mọi cuộc chia li. Nhất là cuộc chia tay giữa những người bạn tri âm. Vậy cánh buồm cô đơn ấy là tâm trạng cô đơn của chủ thể trữ tình:
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời)
Dòng Trường Giang vốn hùng vĩ, dưới cái nhìn của người ở lại càng dữ dội
hơn. Nó trở thành “thiên tế lưu’. Bản dịch đã không lột tả được thần thái của hai câu thơ cuối. Cái chất nhiên tế lưu của dòng Trường Giang thể hiện được cả sóng trong lòng người đưa tiễn, đó là một cơn sóng dữ dội. Chứng tỏ cuộc chia tay đã tác động rất mạnh đến tâm lí người ở lại. Đây là những hình ảnh thơ rất hay xuất hiện trong thơ Lý Bạch. Là nhà thơ lãng mạn, thích phóng túng, ưa thích tự do nên bên cạnh những vần thơ phá luật, nhà thơ còn thích dùng những hình ảnh có tính chất dữ dội và giàu khả năng gợi cảm. Khi miêu tả thác Lư Sơn tác giả đã dùng hình ảnh.phi lưu trực há tam thiên xích”, còn dòng Trường Giang thì như từ trên trời đổ xuống. Cái dữ dội của dòng Trường giang dưới con mắt của người đưa tiễn có thể liên tưởng rộng hơn nữa. Phải chăng Dương Châu phồn hoa đô hội còn có cái gì đó thật dữ dằn đối với người sắp đến. Cánh buồm chà Mạnh Hạo Nhiên đơn độc và vô cùng nhỏ bé trước cái vô cùng của sông nước Trường Giang và thật yếu ớt mong manh trước cái dữ dội của dòng sông ấy. Bản chất trong sáng, thẳng ngay và tấm lòng thanh bạch của những người nghệ sĩ có tâm như Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên thật không dễ tồn tại yên ổn trong thế giới quan trường đầy cạm bẫy và mưu mô danh lợi. Đó có phải là nỗi lo lắng của người ở lại dành cho người ra đi khi biết rằng bạn mình đến một nơi chẳng” mấy bình yên? Sinh thời Lý Bạch là người thích ngao du sơn thuỷ song cũng luôn da diết một khát vọng giúp nước. Là người quân tử, cả Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên đều đã muốn mang tài năng của mình ra giúp
nước. Nhưng sau nhiều phen thất vọng vì không thực hiện được hoài bão chính trị, những khát khao ấy đã trở thành nỗi đau đời trong ông. Có thể bài thơ được sáng tác khi Lý Bạch đã vấp phải những thất bại trên đường đi tìm minh quân để phát huy tài năng, giúp ích thiên hạ. Vì vậy khi Mạnh Hạo Nhiên quyết định đến Quảng Lăng để làm quan, nỗi háo hức được phò vua giúp nước trong Lý Bạch đã phần nào bớt sôi nổi. Và thay vào đó là tâm trạng hồ nghi. Và, chính vì lẽ đó mà bên cạnh nỗi cô đơn của cả người đi và người ở lại còn là một nỗi băn khoăn day dứt. Về nội dung, bài thơ có khả năng gợi rất nhiều liên tưởng. Nhưng bao trùm lên tất cả là tâm trạng rất bộn bề của người đưa tiễn. sức khái quát và khả năng gợi tả của bài thơ được làm nên bởi những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bài thơ nhỏ nhắn xinh xắn như một bức tranh sơn thuỷ mà màu sắc và đường nét đều rất sắc sảo. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất hội hoạ, bài thơ đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật của thi tiên Lý Bạch. Và cuộc chia tay tinh thần đầy là luyến diễn ra trong tâm tưởng người ở lại đã thông tỏ tình bạn thắm thiết giữa hai thi nhân tài năng đời Đường. Hạc vàng – biểu tượng của sự giàu có thịnh trị lại những dấu ấn mà thôi.- thời gian thực và không lí nhân sinh có ý nghĩa. Hoàng Hạc lâu gợi nhiều liên tưởng khác nhau cho người đọc. Tâm trạng nuối tiếc, sự suy tư của tác giả trước sự còn mất, giữa hiện tại và quá khứ, giữa cái vô hạn của vũ trụ và sự hữu hạn của đời người đã gợi lên những liên tưởng về hiện thực xã hội. Đặt bài thơ
“Hoàng Hạc lâu vào hoàn cảnh ra đời, có thể dễ dàng liên hệ tư tưởng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là tư tưởng của kẻ sĩ trong thời kì mà Thôi Hiệu đang sống, thời kì hiện thực xã hội đã đi vào rất nhiều tác phẩm của nhiều nhà thơ thời ấy, tiêu biểu là những bài “thi sử” của Đỗ Phủ. Rất có thể bài thơ ra đời khi nhà thơ đã chứng kiến cảnh suy tàn và sa đoạ của triều đình nhà Đường. Thời kì thịnh trị đã trôi qua và thực tại phũ phàng đã nảy sinh ở các thi nhân tâm trạng hoài cổ. “Hạc vàng” và “người xưa” là biểu tượng cho những điều tốt đẹp đã qua đi, nó làm cho người ta tiếc nuối. Lầu Hoàng Hạc được xây vào đời Tam quốc, cuối đời Hán. Tương truyền, đầy vốn là một quán rượu, có một người mấy lần đến quán uống rượu nhưng đều không trả tiền, khất nợ mãi, đến lần thứ ba thì vẽ một con hạc lên tường để tặng chủ quán. Khi vỗ tay ba tiếng con hạc nhảy ra vui đùa. Chủ quán làm thử và thấy hiệu nghiệm. Từ đó khách đến uống rượu rất đông, quán rượu trở nên giàu có. Sau đó, ông khách trở lại cùng hạc vàng bay về trời. Chủ quán tường nhớ công ơn nên đã xây lầu Hoàng Hác. Theo truyền thuyết thì sự giàu có của quán rượu là do hạc vàng mang lại. Hạc đã ra đi và không trở lại, chỉ còn – chỉ nhắc đến truyền thuyết, . nguồn gốc và vị trí của lầu Hoàng Hạc trong không thời gian ảo mà cồn thể hiện được những vấn đề triết lí – với khả năng vận dụng linh hoạt luật thơ và sáng tạo hình ảnh ngôn ngừ, nhà thơ Thôi Hiệu đã tạo nên giá trị hàm súc cho bài thơ.
Hoàng Hạcl âu là kiệt tác của Thôi Hiệu cả ở hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Nhà thơ đã có những sáng tạo rất riêng trong hình thức nghệ thuật để tạo nên một bức tranh đẹp về lầu Hoàng Hạc, qua đó thể hiện triết lí nhân sinh về cuộc đời. Đó vừa là những trăn trở về cuộc đời, vừa là tấm lòng tha thiết đối với quê hương. Và vượt lên tất cả là tấm lòng trân trọng những giá trị tốt đẹp của quá khứ, từ đó trân trọng những điều tốt đẹp của cuộc sống hiện tại. Với những ý nghĩa nhân văn cao đẹp ấy, bài thơ đã thể hiện khao khát và ước mơ về một cuộc sống có- thật nhiều những điều tất đẹp bởi đó là giá trị thực của cuộc sống.