SỞ GD&ĐT ĐIỆN BIÊN TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ QUÝ ĐÔN, ĐIỆN BIÊN ĐỀ ĐỀ XUẤT |
ĐỀ THI OLYMPIC TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG LẦN THỨ XV MÔN: NGỮ VĂN – KHỐI: 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Đề thi gồm: 01 trang. |
Câu 1: (8,0 điểm)
Luôn có hai con đường cho bạn lựa chọn: Con đường đang đi quá quen thuộc, con đường sẽ đi đầy thử thách chông gai và bất ngờ.
Bạn sẽ chọn con đường nào ?
Câu 2: (12,0 điểm)
Bàn về tài năng nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nhà văn, Hoài Thanh trong tiểu luận “Thành thực và tự do trong văn chương” cho rằng: “Nhà văn phải biết nghe, biết thấy, biết cảm xúc, biết suy nghĩ một cách khác thường, sâu sắc khác thường”.
Bằng trải nghiệm văn học về nhân vật Thúy Kiều (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du) đặt trong hệ thống thể loại truyện Nôm, anh/chị hãy làm sáng tỏ những cái khác thường đó của Nguyễn Du.
……………………………..Hết ……………………………
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu | Nội dung chính cần đạt | Điểm |
Câu 1 | Luôn có hai con đường cho bạn lựa chọn: Con đường đang đi quá quen thuộc, con đường sẽ đi đầy thử thách chông gai và bất ngờ. Bạn sẽ chọn con đường nào ? |
8 điểm |
1. Yêu cầu chung – Về kĩ năng: có kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội bàn về một quan điểm, một phương pháp, một cách sống. Bài làm có bố cục đầy đủ, rõ ràng, mạch lạc, văn viết lưu loát, hấp dẫn. Học sinh phải biết vận dụng tổng hợp các thao thác lập luận để bài làm có sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ, ý tứ sâu sắc, quan điểm rõ ràng, sáng tạo. – Về kiến thức: Có những hiểu biết và trải nghiệm sống nhất định trong việc lựa chọn con đường mà mình sẽ đi. Thực chất đề bài đưa ra một phương pháp tư duy: tư duy theo lối mòn hay tư duy sáng tạo; chọn con đường bình an hay con đường trông gai thử thách. Dù chọn con đường nào, lối tư duy nào thì người viết cũng phải có vốn sống, vốn hiểu biết nhất định. |
||
2. Yêu cầu cụ thể Bài làm có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng đảm bảo tính thuyết phục. Sau đây là một vài gợi ý: |
||
2.1 Giới thiệu vấn đề | 0,5 | |
2.1 Giải quyết vấn đề | ||
2.1.1, Giải thích vấn đề – Trong cuộc sống mỗi người đều có quyền chọn cho mình một cách sống. Tuy nhiên cách sống ấy phải phù hợp với cá nhân mình, với xã hội và mang lại những điều tốt đẹp nhất. Vậy thì chúng ta sẽ chọn con đường nào: an phận thủ thường với con đường nhàm chán quen thuộc hay tìm một con đường mới để khám phá, dấn thân, thử thách. – Con đường mà chúng ta đã và đang đi là con đường quen thuộc. Trên con đường ấy, chúng ta sẽ tìm được cảm giác bình an, chúng ta sẽ thấy mọi thứ trở nên gần gũi, thân thuộc. Tuy nhiên đó lại là con đường của lối mòn, nhàm chán tẻ nhạt và có khả năng làm thui chột khát vọng khám phá, sáng tạo của con người. – Con đường mà chúng ta sẽ đi là con đường mới lạ có nhiều trắc trở, nhiều bất ngờ và ẩn chứa nguy cơ thất bại. Tuy nhiên đó lại là con đường của khát vọng sáng tạo, con đường của tương lai phát triển. Đây chính là con đường mà nhân loại đã lựa chọn trong hành trình tiến hóa của mình. |
2,0 | |
2.1.2. Bàn luận vấn đề – Con người luôn hướng thượng, luôn có khát vọng sáng tạo, không bao giờ chấp nhận đi trên lối mòn của mình, của ngươi khác mà luôn muốn đương đầu với thử thách chông gai. Có được điều này là do con người có bản lĩnh, sự dũng cảm, khát vọng sáng tạo, ước mơ bay bổng. – Có những sự thay đổi mà mỗi người chúng ta phải chấp nhận sự rủi ro. Và bằng trí tuệ và niềm tin, con người đã hạn chế tối đa sự rủi ro ấy. Có những nỗi sợ hãi ở con người khi đứng trước một ngã rẽ, một điều mới mẻ. Chỉ có lòng dũng cảm mới giúp con người vượt qua nỗi sợ hãi đó. Chấp nhận sự thay đổi và vượt qua nỗi sợ hãi đã giúp con người hoàn thành khát vọng chinh phục đỉnh cao và thảo mãn niềm đam mê sáng tạo. – Chọn con đường quen thuộc, tầm thường là chọn một cuộc đời tẻ nhạt, chỉ có những người hèn nhát, thiếu niềm tin và khát vọng vươn lên mới chọn con đường ấy. Nó là con đường kìm hãm sự phát triển… |
4,0 | |
2.1.3. Liên hệ bản thân | 1,0 | |
2.1. 4.Bài học nhận thữa và hành động của bản thân: – Đừng bao giờ chọn con đường cũ kĩ, lạc hậu, nhàm chán. Hãy biết chọn con đường của ước mơ, khát vọng, sáng tạo. – Luôn rèn luyện để có đủ niềm tin, sự dũng cảm, óc sáng tạo để vượt qua mọi sự thay đổi, vượt qua nỗi sợ hãi để được đi và thành công trên những con đường mới |
0,5 | |
Câu 2 | Bàn về tài năng nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nhà văn, Hoài Thanh trong tiểu luận “Thành thực và tự do trong văn chương” cho rằng: “Nhà văn phải biết nghe, biết thấy, biết cảm xúc, biết suy nghĩ một cách khác thường, sâu sắc khác thường”. Bằng trải nghiệm văn học về nhân vật Thúy Kiều (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du) đặt trong hệ thống thể loại truyện Nôm, anh/chị hãy làm sáng tỏ những cái khác thường đó của Nguyễn Du. |
12.0 điểm |
1. Yêu cầu chung: Hiểu đúng đắn vấn đề, nắm được cách làm bài văn nghị luận văn học, bài viết nêu được ý kiến riêng, có sức thuyết phục. | ||
2. Yêu cầu cụ thể: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: | ||
2. 1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận | 0.5 | |
2. 2. Giải quyết vấn đề | ||
2. 2. 1. Giải thích a. “Biết nghe, biết thấy, biết cảm xúc, biết suy nghĩ” – “Biết nghe, biết thấy”: Khả năng nhạy bén để lắng nghe, quan sát, nắm bắt phân tích, nhìn nhận, khám phá hiện thực một cách tinh tế, rộng rãi; khả năng tưởng, tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo (trí tuệ của nhà văn) – “Biết cảm xúc”: Khả năng rung động, xúc cảm, biết vui – buồn, yêu – ghét … trước hiện thực cuộc sống một cách sâu sắc (xúc cảm của nhà văn) – “Biết suy nghĩ”: Khả năng suy ngẫm, chiêm nghiệm về con người, về cuộc đời (tư tưởng của nhà văn) b. … “một cách khác thường, sâu sắc khác thường” – Có những phát hiện mới mẻ về hiện thực – Có cách nhìn nhận, xúc cảm, chiêm nghiệm riêng mang tính phát hiện, độc đáo. -> Nhấn mạnh tài năng, sự sáng tạo của nhà văn: Nhà văn phải phát hiện được đối tượng thẩm mỹ với những giá trị thẩm mỹ là những cái đẹp, những điều mới lạ, sâu sắc trong cái hàng ngày, mang bản chất đời sống và ý nghĩa nhân sinh sâu sắc; có khả năng làm rung cảm lòng người và có những khám phá mang tính tiên phong. |
1.0 |
|
2. 2. 2. Bàn luận – Nhà văn và sự sáng tạo: Bản chất văn chương là sự sáng tạo. Nhà văn nếu cá tính mờ nhạt không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì đó là một “sự tự sát trong văn học”. – Nhà văn – hiện thực: Đối tượng của văn học là hiện thực khách quan. Đó là “cảnh trời với lòng người”, là “cái hay, cái đẹp, cái lạ trong cảnh trí thiên nhiên và trong tâm linh con người”, là “những nơi núi cao, biển rộng, những cuộc sống oanh liệt lạ lùng, những tính tình li kỳ, những cảm giác mạnh mẽ, những cảnh rực rỡ huy hoàng, cùng những cảnh lầm than đau khổ của ức triệu con người”, là “hình ảnh quần chúng một thời đại”. Nhà văn phải dấn thân tích cực vào đời sống đa dạng đó, đón nhận những âm vang của đời chứ không phải ở trên tầng cao thẳm lãnh đạm ngắm những cảnh phong ba dữ dội ở đời. + Sự quan sát của nhà văn không chỉ dừng lại ở bề ngoài mà còn phán đoán, nhận biết những quy luật và bản chất đời sống, phát hiện những điều sâu kín trong tâm hồn của con người mà không ai dễ dàng nhìn thấy. Văn chương là tiếng nói của trí tuệ. – Nhà văn – người có rung động tình cảm mãnh liệt: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người. Văn học phải là tiếng nói của trái tim, của cảm xúc thẩm mỹ như niềm kính phục, trân trọng cái cao cả, niềm rung động trước cái đẹp, nỗi đau của những bi kịch, tiếng cười đối với cái thấp kém, xấu xa, phi chuẩn mực … + Tấm lòng dễ rung động trước hiện thực sẽ là động cơ, cội nguồn của sáng tạo – Nhà văn – tư tưởng: Không chỉ có sự nghiền ngẫm sâu sắc cảm giác, những điều trông thấy và chiều sâu của cảm xúc, tầm cỡ của nhà văn và tác phẩm phụ thuộc vào độ chín của suy nghĩ. Trước vấn đề của đời sống nhà văn phải trăn trở để khám phá được bản chất của sự vật, hiện tượng… Đồng thời, qua sự vật, hiện tượng cụ thể, nhà văn còn phải có khả năng khái quát hóa, nhìn thấy cái chung trong cái riêng, từ cái riêng mà nhìn thấy quy luật chung của cuộc sống. + Chính vì phải trả giá cho những tìm tòi để có được một chính kiến, một quan niệm hay để hiểu ra một chân lý, lại thường bị che đậy, nên những vấn đề đặt ra của nhà văn vừa dữ dội, quyết liệt vừa có sức lôi cuốn mạnh mẽ với người đọc. |
2.5 | |
2.2.3. Chứng minh Thí sinh nắm vững thể loại truyện Nôm với các tác phẩm cụ thể, nắm vững tác phẩm “Truyện Kiều” để phát hiện được cái khác thường, sâu sắc khác thường của Nguyễn Du qua nhân vật Thúy Kiều. * Khẳng định: Nguyễn Du, qua nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”, đã mang đến cho văn học dân tộc một cách nghe, cách thấy, cách cảm xúc, cách suy nghĩ khác thường, sâu sắc khác thường với một tiếng nói mới mẻ, lôi cuốn. a. Cái khác thường trong cách nghe, cách thấy – Tác phẩm khác: Mang tính chất lý tưởng hóa + Nhân vật được xây dựng theo khuôn mẫu, nhân vật chính là những nam thanh, nữ tú, những bậc tài tử, giai nhân mang vẻ đẹp chuẩn mực về công, dung, ngôn, hạnh. + Cách hành xử của nhân vật: Hành xử theo môtip chung dưới nhiều biểu hiện khác nhau, hoàn cảnh được dùng như một phép thử để cho nhân vật khẳng định vẻ đẹp nguyên vẹn, trong sạch cả ở thể xác lẫn tâm hồn như một hình thức giáo huấn đạo đức cho con người. + Tính cách nhân vật: Nhân vật đã có cá tính nhưng mới chỉ dừng ở mức cá thể hóa tâm trạng nhân vật. – “Truyện Kiều”: + Thúy Kiều – nhân vật khác thường: Thúy Kiều của Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình bậc trung, tuy nhiên, thân phận trong phần cuộc đời phía sau của nàng lại là phần đời được tập trung khắc họa, gợi nhiều suy nghĩ, trăn trở: thân phận của người ca nhi, kỹ nữ. + Thúy Kiều – cách ứng xử khác thường: Hi sinh tình yêu (tình) để thực hiện đạo lý của kẻ làm con (hiếu), sống kiếp sống của kẻ “bán phấn buôn hương”. + Thúy Kiều – tính cách khác thường: Mang tính cá thể hóa cao độ, từ ngoại hình đến hành động, ngôn ngữ, như một “con người này”. b. Cái khác thường trong thể hiện cảm xúc + Tác phẩm khác: Nhà văn đứng bên ngoài quan sát, mang tính chất khách quan. + Nguyễn Du: Nhập thân vào nhân vật, đau cùng nhân vật bằng một trái tim “nặng nỗi đau nhân tình”. “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy” (Mộng Liên Đường chủ nhân). c. Cái khác thường trong suy ngẫm, chiêm nghiệm Cùng mang nội dung về tình yêu nam nữ, song “Truyện Kiều” là cách nhận thức, lý giải và thái độ riêng với những vấn đề đặt ra thể hiện những cảm nhận và suy nghĩ riêng về cuộc đời, con người trên quan điểm của nhà nhân đạo chủ nghĩa “nhân đạo từ trong cốt tủy”. – Tác phẩm khác: Phần lớn tập trung giải quyết mâu thuẫn giữa khát vọng về tình yêu tự do với quan niệm, khuôn phép của đạo đức, lễ giáo chính thống (các tác phẩm truyện Nôm như – “Truyện Kiều”: Thông qua các nhân vật, đặc biệt là Thúy Kiều, Nguyễn Du đặt ra vấn đề xoay quanh cuộc đời nhân vật Thúy Kiều – người con gái vừa có sắc, có tài, lại có tình, có tâm – trong mối quan hệ với các thế lực xã hội (đồng tiền, nhà chứa, quan lại…) |
6.0 |
|
2.2.4. Đánh giá, mở rộng, nâng cao – Khẳng định lại tính sâu sắc của ý kiến: vai trò của tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn trong đời sống văn học. – Bài học với người nghệ sỹ và với văn chương: + Trách nhiệm của người nghệ sỹ: phải nhìn thấy cái “bề sâu, bề sau, bề xa” của cuộc đời, nhất là con người. + Tác động của văn chương đối với người đọc: Văn chương phải góp phần hun đúc phần tình cảm, đáp ứng nhu cầu xã hội, đánh thức khát vọng tiềm ẩn và gây nên chất men phản kháng ở mỗi con người. “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm ngàn lần” (Hoài Thanh). |
1.5 | |
2.3. Kết thúc vấn đề: Nêu ý nghĩa của nhận định. | 0.5 |