Vĩnh biệt cửu trùng đài

Đề thi về bài Đàn ghi ta của Lorca Thanh Thảo

NGUYỄN KHUYẾN
 
ĐÀN GHI-TA CỦA LOR-CA
 
Đề bài 1:
Về bài Đàn ghi ta của Lorca có ý kiến cho rằng :” Bài thơ đã để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc về cái chết kinh hoàng của Lorca. Tuy nhiên ấn tượng sau cùng không phải là cái thảm khốc mà chính là sự bất tử của người nghệ sĩ Lorca“. Qua hình tượng người nghệ sĩ Lorca, anh/ chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên, từ đó liên hệ với bi kịch của Vũ Như Tô trong tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng.
Gợi ý
Mở bài
* Đôi nét về tác giả
Được công chúng đặc biệt chú ý bởi những bài thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến.
– Thơ Thanh Thảo là sự lên tiếng của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Tuy nhiên, ông muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở bề sâu nên luôn khước từ lối biểu đạt dễ dãi.
* Tác phẩm Đàn ghi ta của Lorca
– Bài thơ được in trong tập ” Khối vuông ru bích
Thể hiện tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực.
Thân bài
Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
– Từng được biết đến Tây Ban Nha qua những tác phẩm của Hêminguê- một nhà văn Mĩ, lại đọc thơ Lorca từ khi còn trẻ, hình ảnh Tây Ban Nha và hình ảnh trong những câu thơ Lorca đã lặn sâu vào tâm trí và trở thành một ám ảnh để khi viết bài thơ, nó bật ra một cách hoàn toàn tự nhiên.
– Được viết liền mạch trong khoảng thời gian rất ngắn, sau khi ngồi chơi và đàm đạo về thơ Lorca với những người bạn tâm đắc -> kết quả của ấn tượng và nhận thức sâu sắc của Lorca.
– LORCA là nhà thơ mà Thanh Thảo rất ngưỡng mộ. Cả thơ ca, cuộc đời và cái chết của Lorca đã gây cho tác giả những xúc cảm và ấn tượng. Chính những hình ảnh và nhạc điệu trong nhiều bài thơ của Lorca đã dẫn dắt Thanh Thảo khi viết “Đàn ghita của Lorcaorca”
Giới thiệu khái quát nguời nghệ sĩ Phêđêricô Gaxia Lorca (1898-1936)
– Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha.
– Trước một Tây Ban Nha – dưới sự cai trị của chế độ độc tài- đã trở nên phản động về chính trị và già cỗi về nghệ thuật, Lorca đã nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng đồng thời cũng khởi xướng và thúc dẩy mạnh mẽ những cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Lorca đã tự nguyện làm người du ca đi lang thang với cây đàn ghita hát lên những bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nôĩ đau buồn và niềm khát vọng yêu thương của nhân dân.
– Ông đã bị chế độ phản động cực quyền thân phát xít bắt giam và bắn chết. Cái chết thảm khốc của Lỏca đã dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên thế giới với bè lũ Phrăngcô. Tên tuổi của Lorca trở thành biểu tượng chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.
Lorca và cái chết thảm khốc
– Thanh Thảo đã ghi lại những giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời Lorca khi ông bị phát xít giết hại và ném xác xuống giếng để phi tang
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
– Chàng nghệ sĩ “đi như người mộng du” giữa bầy ác quỷ, tiếng hát nghêu ngao và tiếng đàn của chàng “bỗng kinh hoàng”, “đứt ngang giây”, chỉ còn lại, chỉ nhìn thấy “áo choàng bê bết đỏ”.
– Ở đây nhà thơ như nhập thân vaò hình tượng, đồng thời cũng tự phân thân để trải nghiệm đến tận cùng hai tâm trạng- tâm trạng của Lorca và tâm trạng của dân tộc Tây Ban Nha mà Lorca là đại diện ưu tú. Nỗi kinh hoàng của dân tộc Tây Ban Nha không chỉ là vì cái chết của Lorca mà còn vì cách ứng xử tàn bạo, vô nhân đạo trước khát vọng tự do của con người.
– Ở khổ thơ đầu, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra cốt cách tự do và tính cách dữ dội, phong cách anh hùng và cá tính nghệ sĩ thì ở khổ thơ này, hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” lại gợi tấm thảm kịch của con người mang khát vọng tự do. “Áo choàng đỏ gắt” là một biểu tượng có chức năng khái quát, “áo choàng bê bết đỏ” lại là một sự kiện cụ thể (Lorca bị điệu về bãi bắn)
=> Thanh Thảo không đi sâu miêu tả sự kiện Lorca bị giết mà chỉ gợi một ấn tượng dữ dội về nó để biêt hiện cảm xúc đau đớn của chính mình và gợi nỗi đau trong lòng người đọc.
tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy
Lor-ca đã ngã xuống trước làn đạn của bè lũ phát xít dã man, đã để lại một “bầu trời” thương nhớ mênh mông cho “cô gái ấy”, cho người yêu (nàng An-na Ma-ri-a)! “Tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh” là biểu tượng cho một tâm hồn nghệ sĩ mang một tình yêu tha thiết và yêu đời, gắn bó với quê hương, với nhân dân. Sau loạt đạn của quân thù, một tài năng đã bị huỷ diệt; tiếng đàn bị “vỡ tan” như bọt nước, bị “đứt ngang dây”, với bao máu đỏ chảy “ròng ròng”. Thanh Thảo qua các ẩn dụ, so sánh, tượng trưng và điệp ngữ đã tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm, bộc lộ nỗi tiếc thương Lor-ca, một thiên tài bị cái ác sát hại.
Lorca và sự bất tử
– Câu thơ “không ai chôn cất tiếng đàn” viết theo lối tượng trưng diễn tả tình thế bi thảm của Lorca, không ai dám chôn cất một nghười bị hành hình, song cũng chính nó khẳng định sức sống kì diệu của tiếng đàn nói riêng, của những sáng tạo nghệ thuật nói chung mà Lorca để lại. Người nghệ sĩ tạo nên tiếng đàn có thể bị vùi dập, bị giết hại nhưng nghệ thuật thì không thể bị hủy diệt.
– Sắc thái khẳng định này càng rõ hơn trong hình ảnh so sánh “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Cỏ mọc hoang là loại cỏ không được nuôi trồng , chăm sóc vẫn tự mọc, tự sống.Đây là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho sức sống kiên cường, mãnh liệt, bền bỉ. Ví tiếng đàn như cỏ mọc hoang , nhà thơ khẳng định niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tiếng đàn, của người nghệ sĩ, của nghệ thuật chân chính.
– Hình ảnh “Giọt nước mắt vầng trăng/Long lanh trong đáy giếng” gợi nhiều liên tưởng. Hình ảnh “vầng trăng” xuất hiện hai lần đều không phải như những thực thể của thế giới khách quan mà như một biểu tượng gắn liền với những năng lượng tinh thần đặc biệt. Lần thứ nhất, trăng xuất hiện trong trạng thái “chếnh choáng” rất nghệ sĩ. Lần thứ hai lại được gợi ra trong một nỗi đau rất con người mà cũng thẳm sâu như chính vũ trụ- nơi trăng kia hiện diện. Ở câu thơ này, vầng trăng trước hết thuộc về vụ trụ bát ngát với ánh sáng dịu dàng và vẻ đẹp mĩ lệ. Đối lập với vầng trăng là đáy giếng- nơi kẻ thù ném xác Lorca hòng xoá dấu vết tội ác, nơi tăm tối mịt mùng, không sao soi thấu được, nơi lưu giữ hiện thân của đau thương và tội ác xấu xa. Hai hình ảnh tương phản này gợi hai thế giới hoàn toàn cách biệt, xa lạ và không thể nào tìm mối liên hệ. Vậy mà Thanh Thảo đã phát hiện ra mối liên hệ giữa chúng bằng một liên tưởng độc đáo. Tr­ước hết, “giọt nước mắt vầng trăng” vừa có thể hiểu là giọt nước mặt của vầng trăng (trăng khóc cho cái chết oan khuất của Lorca  hay chính là vũ trụ đã cảm thấu nỗi đau khôn cùng của con người), vừa có thể hiểu rằng là giọt nước mắt của vũ trụ rơi vào đáy giếng để soi sáng sự thật bị chôn vùi. “Đáy giếng” là nơi chôn vùi thân xác Lorca , nơi cất giấu một bí mật về tội ác của chế độ độc tài, “đáy giếng” cũng là nơi đón nhận sự toả sáng của mối đồng cảm sâu xa từ vũ trụ.
– – Sức tưởng tượng mạnh mẽ: “Đường chỉ tay đã đứt” là sự chấm dứt cuộc sống vật chất, “dòng sông rộng vô cùng” là cuộc đời vô hạn vẫn tiếp tục chảy trôi gợi một cảm giác bi quan: có lẽ sự tồn tại hữu hạn, mong manh của một đời người ngắn ngủi đứt gãy nửa chừng sẽ bị dìm cho chìm nghỉm dưới đáy sông, sẽ trở nên vô nghĩa trước cái vô cùng của sóng nước. Thế nhưng Thanh Thảo lại bằng tưởng tượng đem đến một cảm nhận hoàn toàn ngược lại:
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
“bơi” là hành động để tồn tại và khẳng định sự tồn tại trên dòng sông, “bơi sang ngang” là không bị cuốn đi và không muốn buông trôi theo dòng nước- phải chống chọi với sức băng cuốn của sóng nước song cũng thể hiện rõ tư thế đứng cao hơn mọi sự chảy trôi thông thường; bơi bằng và trên chiếc “ghita màu bạc” là dùng cây đàn ghita chở tải sự sống của mình vượt lên mọi sự băng hoại, chảy trôi. Chiếc đàn ghia ta đã chở sự sống và linh hồn Lorca vượt qua giới hạn ngắn ngủi của đời người để đến với cõi vô cùng của cuộc sống. Đó vừa là thực tế, vừa là niềm tin tuyệt đối của Thanh Thảo vào sự bất tử của Lorca. Vậy là, sự tưởng tượng xét đến cùng lại bắt nguồn từ nhận thức về giá trị tinh thần của tiếng đàn Lorca, từ giá trị của tiếng nói và những cống hiến của Lorcacho nghệ thuật. Vậy là ta lại thấy ở đây một khía cạnh nữa trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo: sự sống vật chất của người nghệ sĩ chỉ là hữu hạn song sản phẩm nghệ thuật mà nghệ sĩ tạo ra sẽ đưa nghệ sĩ vào cõi bất tử.
Dòng tưởng tượng tiếp tục trào dâng mạnh mẽ về sự sống bất diệt và niềm kiêu hãnh của Lorca: “lá bùa cô gái Digan” là vật có phép thiêng để trừ tà và tránh tai hoạ. Ném “lá bùa” vào “xoáy nước” là sẵn sàng đối mặt với hiểm hoạ và định mệnh trong cuộc đời- hành động làm bật lên tư thế đầy kiêu hãnh (“xoáy nước” là hiểm hoạ trên dòng sông số phận, “ném lá bùa” là ném sự bảo vệ về sinh mạng). “Ném trái tim” lại là sự dâng hiến trọn vẹn trong thanh thản và vô tư những rung cảm trong sáng, chân thành và thiêng liêng nhất của chính mình- hành động làm bật lên sự cao cả của tấm lòng, sự cao thượng trong tình cảm. Cả t­ thế kiêu hãnh và trái tim cao thượng đều là dấu hiệu của cốt cách nghệ sĩ- hiệp sĩ, nó làm tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng Lorca (hai lần Thanh Thảo dùng từ “ném”. Lần thứ nhất là hành động của một hiệp sĩ dám coi khinh cái chết bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca  hòa vào sự sống bất tử của nhân dân. Lần thứ hai là hành động của một nghệ sĩ sẵn sàng và tự nguyện dâng trọn tâm hồn mình cho cuộc đời để ra đi trong yên lặng. Chính sự dâng hiến vô tư và tự nguyện ấy đã khiến tiếng đàn ghita của Lorca ngân vang bất diệt không chỉ bằng âm thanh mà còn bằng cả dư âm. Hai lần Thanh Thảo mô tả tiếng đàn “li – la li – la li – la”. Lần thứ nhất là những âm thanh vang lên trong không gian dữ dội của đất nước Tây Ban Nha thành lời ca tranh đấu. Lần thứ hai là những âm thanh vang lên trong “lặng im bất chợt”, vang lên từ cõi vô cùng và sự bất diệt. Lần thứ nhất là âm thanh thực. Lần thứ hai đã là những dư âm không dứt để khơi dậy và nối dài cảm xúc, rung động và tỏa sáng lí tưởng cao cả đẹp đẽ của Lorca).
Liên hệ bi kich của Lorca với bi kịch của Vũ Như Tô
* Giống nhau
– Vũ Như Tô và Lor ca là những nghệ sĩ có những ước mơ, khát vọng đẹp. Vũ Như Tô muốn xây Cửu Trùng Đài để tranh tinh xảo với hoá công, làm rạng rỡ đất nước…, Lor ca là người nghệ sĩ đam mê cách tân nghệ thuật, là người chiến sĩ đấu tranh cho tự do, dân chủ.
– Cả hai nhân vật đều lâm vào bi kịch đớn đau trong bối cảnh xã hội thối nát, bạo tàn.
+ Vũ Như Tô vì xây Cửu Trùng Đài mà bị nhân dân căm ghét và cuộc nổi loạn của phu phen cùng các phe cánh thống trị phong kiến đã đốt cử trùng đài và giết chết Vũ Như Tô.
+ Lor ca là một tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha, là một tâm hồn trong trắng, một thi sĩ giàu mộng mơ, yêu tha thiết tự do và cái đẹp, một chiến sĩ kiên cường. Hoảng sợ trước sự ảnh hưởng của ông, chế độ độc tài Phát xít sát hại Lor ca.
* Khác nhau
Vũ Như Tô
– Vũ Như Tô là vở bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng viết năm (1941). Nhân vật Vũ Như Tô có tài, khao khát sáng tạo cái đẹp để cống hiến cho nghệ thuật, cho cuộc đời. Tuy vậy, Vũ Như Tô là người nghệ sĩ thiếu nhãn quan chí trị – xã hội sắc bén, ông chỉ biết sống chết cho nghệ thuật, xa rời thực tiễn. Ông tưởng dựa vào thế lực, tiền bạc của bọn vua chúa phong kiến để xây một công trình tuyệt thế cho nhân dân, nhưng ông đâu biết rằng toà lâu đài ấy xây bằng mồ hôi, máu của nhân dân. Bởi vậy, đến lúc chết Vũ Như Tô vẫn không biết mình xây cửu trùng đài là có công hay có tội.
– Nguyễn Huy Tưởng trân trọng tài năng, hoài bão của Vũ Như Tô nhưng không đồng tình với nhân vật của mình. Qua bi kịch của Vũ Như Tô Nguyễn Huy Tưởng cho thấy cái đẹp không tách rời cái chân và cái thiện, tác phẩm nghệ thuật chân chính không chỉ đơn giản là cái đẹp thuần tuý, không chỉ là thứ nghệ thuật cao siêu mà phải dựa trên quyền lợi của cộng đồng, phục vụ nhân dân. Người nghệ sĩ có quyền vươn lên những mộng lớn nhưng phải phù hợp với thực tế đời sống, với đòi hỏi của muôn đời.
– Bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô được truyền tải đến người đọc qua những tình huống kịch tính của thể loại bi kịch.
Lor ca
– Lor-ca là một nghệ sĩ du ca lãng tử, một chiến sĩ yêu tự do nhưng cô đơn trong tranh đấu. Người nghệ sĩ, chiến sĩ ấy suốt cả đời mình đã đấu tranh đòi công lí cho nhân dân và những cách tân trong nghệ thuật. Lor ca điển hình cho thân phận người nghệ sĩ tài hoa mà mệnh bạc, phải chết oan khuất dưới tay bọn phát xít tàn bạo. Tuy vậy, Lor-ca là một tâm hồn bất diệt, một nghệ sĩ chân chính. Nhân cách và tài năng nghệ thuật của ông sẽ sống mãi với muôn đời.
– Qua bài thơ, Thanh Thảo bày tỏ tấm lòng tri âm, ngưỡng vọng sâu sắc tới Lor-ca. Nhà thơ cũng gửi tới người đọc một thông điệp đầy tiến bộ: cái đẹp của nhân cách con người, cái đẹp của sự sáng tạo nghệ thuật chân chính sẽ có sức sống bất diệt. Đây cũng là con đường mà Thanh Thảo hằng theo đuổi.
– Bi kịch của Lor ca được truyền tải tới người đọc qua thể thơ tự do mang phong cách tượng trưng, siêu thực giàu cảm xúc, thấm đẫm chất nhạc và tính triết lí sâu sắc.
Kết bài
Qua hình tượng Lor- ca và tiếng đàn ghi ta, tác giả diễn tả cái chết bi tráng đột ngột của người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do và cách tân nghệ thuật. Đồng thời, bày tỏ nỗi tiếc thương vô hạn , sự đồng cảm sâu sắc và niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tên tuổi và sự nghiệp của Lor- ca.
Đề bài 2:
Phân tích vẻ đẹp hình tượng Lorca trong đoạn thơ sau.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la-li-la-li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
(Trích:Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo)
Gợi ý làm bài:
1.Mở bài
– Thanh Thảo là cây bút tiên phong trên con đường hiện đại hóa thơ Việt Nam theo hướng tượng trưng siêu thực.
– Thơ ông là tiếng nói của người tri thức nhiều suy tư trăn trở  về các vấn đề xã hội và thời đại.
– Bài thơ Đàn ghi ta của Lorca rút trong tập Khối vuông ru-bích là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tư duy của Thanh Thảo
–  6 câu thơ đầu đã làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng Lorca : yêu tự do,khát vọng cách tân nền ghệ thuật già nua của đất nước Tây Ban Nha.
2.Thân bài.
a.Giới thiệu đôi nét về Lorca.
– Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha.
–  Lorca có một nhân cách cao đẹp.Ông vừa cổ vũ nhân dân đấu tranh đòi quyền sống chính đáng vừa khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân nghệ thuật.
-Lorca trở thành một biểu tượng và là ngọn cờ tập hợp các nhà văn hóa đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít,bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại.
b.Vẻ đẹp hình tượng Lorca qua 6 câu thơ.
* Văn hóa Tây Ban Nha qua 6 câu đầu
– “tiếng đàn bọt nước”
+ Âm thanh tiếng đàn ghi-ta –một nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha
+Cuộc đời mong manh ngắn ngủi của người nghệ sĩ Lorca.
-“áo choàng đỏ gắt”.
+ Văn hóa đấu bò tót của đất nước Tây Ban Nha
+ Nền chính trị căng thẳng và bất ổn của đất nước Tây Ban Nha
-“li-la-li-la-li-la”.
+ Giai điệu tiếng đàn
+Vẻ đẹp loài hoa li-la.
*Vẻ đẹp hình tượng Lorca.
Trên nền văn hóa Tây Ban Nha người nghệ sĩ hiện lên với khát vọng cao đẹp:
Đấu tranh chống lại chế độ phát xít độc tài đòi tự do dân chủ.
Đấu tranh với nền nghệ thuật già nua của đất nước Tây Ban Nha khát khao đổi mới để thúc đẩy văn hóa văn học của đất nước
Nhưng trong cuộc đấu tranh đó Lorca đơn độc “đi lang thang về miền đơn độc”, “trên yên ngựa mỏi mòn”
Đoạn thơ làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với sự tàn bạo của bọn phát xít,giữa tiếng hát yêu đời và hiện thực phũ phàng đẫm máu.
*Đặc sắc về nghệ thuật.
-Những hình ảnh so sánh,ẩn dụ tượng trương độc đáo gây ấn tượng mạnh với người đọc.
-Thể thơ tự do kết hợp với việc không dùng dấu chấm câu giúp dễ bộc lộ cảm xúc,làm mạch thơ không dứt,tình cảm được trải dài.
3.Kết bài.
-Chỉ 6 câu thơ ngắn gọn,những hình ảnh ẩn dụ kết hợp với âm thanh,màu sắc diễn tả được những nỗi đau,những dự cảm thường xuất hiện trong thơ Lorca,Thanh Thảo đã khái quát được cả một cuộc đời bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Lorca
– Lorca là bức chân dung của một thanh niên có lí tưởng mà bị vùi dập dưới bàn tay tàn bạo của bọn phát xít.
  read more

Đề văn liên hệ Chiếc thuyền ngoài xa và Vĩnh biệt cửu trùng đài

SỞ GD&ĐT PHÚ THỌ ĐỀ THAM KHẢO THI THPT QUỐC GIA 2018
Môn thi: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Giáo viên: Hà Thị ngọc Liên. Trường THPT Minh Hòa.
 
 Phần I : Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
          Một người đàn ông đang đánh bóng chiếc xe hơi mới mua của mình thì cô con gái 4 tuổi của ông lại dùng đá để viết lên chiếc xe ấy. Điên tiết, ông ta cầm lấy bàn tay của đứa trẻ và đánh rất nhiều, và ông không nhận ra mình đang đánh bằng một cái mỏ lết. Lúc đến bệnh viện, cô bé phải cưa bỏ tất cả những ngón tay của mình vì vết thương quá nghiêm trọng.
          Khi đứa trẻ nhìn thấy cha, cô bé tuyệt vọng hỏi “Cha ơi, đến khi nào thì ngón tay con sẽ mọc lại?”. Người cha đau đớn trong lặng câm. Ông trở lại chiếc xe hơi và tức giận đá vào nó. Phải đến lúc thấm mệt ông mới nhìn vào chỗ có những vết rạch mà con gái ông đã viết. Cô bé đã viết:
          “Con yêu cha”.
                                               (Theo Qùa tặng cuộc sống)
 
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên? (0,5 điểm)
Câu 2. Câu nói: “Cha ơi, đến khi nào thì ngón tay con sẽ mọc lại?” thể hiện tâm trạng gì của cô bé? (0,5 điểm)
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao Người cha đau đớn trong lặng câm? (1,0 điểm)
Câu 4. Câu văn khép lại câu chuyện mà cô bé đã viết: “Con yêu cha.” gửi gắm bức thông điệp gì? (1,0 điểm)
Phần II : Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự giận dữ của con người  được rút ra  trong văn bản ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (5,0 điểm)
Anh/ chị hãy phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa để thấy được quan niện về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Từ đó liên hệ với quan niệm về nghệ thuật của vũ Như Tô trong Vĩnh biệt cửu trùng đài của nhà văn nguyễn Huy Tưởng.
 
Hết
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  read more

Đề phân tích bi kịch Trương Ba liên hệ bi kịch Vũ Như Tô

Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM   ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT 2018
          CỤM CHUYÊN MÔN IV                               Bài thi: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản  sau và thực hiện các yêu cầu:
Người Thái phát minh ra chiếc bát làm từ lá cây, thay thế cho hộp đựng thức ăn bằng xốp độc hại
Với những chiếc bát đĩa từ lá cây này, những tác giả của người Thái Lan mong chúng sẽ giữ gìn môi trường sống tốt hơn.
Xuất phát từ sự quan ngại về sự gia tăng trong việc sử dụng đồ đựng thức ăn làm từ xốp styrofoam gây ô nhiễm môi trường, một nhóm nghiên cứu tại Đại học Naresuan đã sáng tạo và phát triển một loại bát từ lá cây. Những chiếc bát này có khả năng tự phân huỷ và không thấm nước.
Các giáo sư trong khoa công nghệ của trường đã dành hơn một năm để phát triển thành công quy trình sản xuất này,  tạo ra những chiếc bát chắc chắn, hữu dụng từ lá cây để thay thế những đồ đựng thức ăn bằng xốp.
Qua nhiều thử nghiệm và cả những sai sót, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng lá của ba loại cây bastard teak, teak và banyan là những vật liệu tốt nhất để sản xuất bát đĩa đựng thức ăn.
Những chiếc bát này có thể đựng được nước nóng mà không bị rò rỉ và chúng có khả năng tự phân huỷ trong tự nhiên sau khi sử dụng xong.
Trưởng khoa Sirintip Tantanee cho biết những chiếc bát này đang trong quá trình chờ cấp bằng sáng chế, tuy nhiên khoa công nghệ sẽ phối hợp với hội đồng thành phố để quảng bá việc sử dụng chúng tại các lễ hội ẩm thực thường niên được tổ chức trong suốt dịp lễ Songkran và năm mới.
Samorn Hiranpraditsakul – giáo sư khoa kĩ thuật công nghiệp cũng đã chia sẻ cảm hứng để sáng tạo nên những chiếc bát đĩa thân thiện với môi trường. Đó là sau khi tới thăm một ngôi đền ở phía bắc Thái Lan, tại đây cô đã chứng kiến cảnh tượng những bát đĩa xốp với nguy cơ ô nhiễm môi trường được xếp thành những chồng khổng lồ.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng tinh bột để tạo thêm độ bóng cho những chiếc bát đĩa làm từ lá cây này. Sản phẩm sẽ được giới thiệu đến công chúng trong dịp lễ Songkran vào tháng 4 năm nay với rất nhiều kiểu dáng khác nhau.
(Theo www.cafebiz.vn, 12 – 4 – 2016)
Câu 1. Lá của những loài cây nào được dùng làm vật liệu để sản xuất bát đĩa đựng thức ăn?
Câu 2. Cảm hứng để Samorn Hiranpraditsakul sáng tạo nên những chiếc bát đĩa được làm từ lá cây bắt nguồn từ đâu?
Câu 3. Việc sản xuất ra những chiếc bát từ lá cây thay thế cho hộp đựng thức ăn bằng xốp có ý nghĩa gì đối với môi trường và người sử dụng?
Câu 4. Anh/chị có đồng  tình với ý tưởng của Samorn Hiranpraditsakul không? Vì sao?
LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về tác hại của việc sử dụng những đồ đựng thức ăn làm từ xốp styrofoam.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phân tích bi kịch của nhân vật Trương Ba trong lớp đối thoại giữa hồn và xác trong trích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ).
Theo anh/chị, bi kịch của nhân vật Trương Ba có điểm gì khác so với bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong trích đoạn kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng)?
…Hết…
Họ tên HS :………………………………………. Số báo danh :………………….
HƯỚNG DẪN CHẤM
Hướng dẫn chung:
– Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm.
– Do đặc trưng của môn Ngữ văn nên giám khảo cần chủ động, linh hoạt trong việc vận dụng đáp án, thang điểm; khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. read more

Chuyên đề ôn thi phần Kịch- Nghị luận lớp 12

CHUYÊN ĐỀ: ĐỌC HIỂU VĂN BẢN KỊCH, NGHỊ LUẬN VÀ TẠO LẬP ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐƯỢC ĐẶT RA TỪ
VĂN BẢN KỊCH, NGHỊ LUẬN
MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
– Giúp học sinh có kiến thức, kĩ năng cơ bản về Văn bản nghị luận và văn bản kịch trong chương trình Ngữ văn 11,12.
– Biết cách viết được đoạn văn nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra từ văn bản kịch, nghị luận.
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỘT: HỆ THỐNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA CÁC VĂN BẢN KỊCH, VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11, 12 VÀ KĨ NĂNG TẠO LẬP ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
VĂN BẢN KỊCH
Đặc trưng của văn bản kịch
1.1.  Xung đột:
+ Là mâu thuẫn vận động, phát triển ngày càng gay gắt, căng thẳng cho tới tình thế đòi hỏi phải giải quyết  bằng một kết cục nào đó. Đây là đặc trưng quan trọng của kịch so với các thể tự sự, trữ tình…(“Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của kịch” – Hê-ghen; “Xung đột tạo nên kịch tính” – Bi-ê-lin-xki)
+ Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở mang tính nhân loại như giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực…; có xung đột bên ngoài và xung đột bên trong.
1.2. Hành động kịch:
+ Là sự cụ thể hóa của xung đột kịch, đó là sự tổ chức cốt truyện với các tình tiết, sự kiện, biến cố theo một diễn biến lôgic, chặt chẽ, nhất quán.
+ Thường dồn dập, gấp gáp, quyết liệt.
1.3. Nhân vật kịch: Hành động kịch được thực hiện bởi các nhân vật kịch.
1.4.  Ngôn ngữ kịch: các nhân vật được xây dựng bằng ngôn ngữ (lời thoại) của họ. Qua lời thoại, tính cách nhân vật, những vấn đề, những mâu thuẫn cũng như cuộc sống xã hội hiện dần lên. Ngôn ngữ kịch mang tính hành động, thường mang tính tranh luận, biện bác; gần gũi với đời sống (súc tích, dễ hiểu, mang tính khẩu ngữ); có các loại ngôn ngữ:
+ Đối thoại: lời của nhân vật nói với nhau
+ Độc thoại: lời của nhân vật bộc lộ tâm tư tình cảm của mình
+ Bàng thoại: lời nhân vật nói với người xem
(Chú ý: văn bản kịch có thêm lời chỉ dẫn sân khấu) read more

Đề đọc hiểu đoạn kết vở kịch Vũ Như Tô SGK Văn 11

 Bộ đề đọc hiểu luyện thi THPT Quốc gia , dành cho  học sinh lớp 11- 12

Đọc đoạn văn bản và trả lời câu hỏi:
LỚP IX
Những người trên thêm một lũ quân
Ngô Hạch: – Chúng bay đi đâu
Lũ quân: – Bẩm tướng quân! Kinh thành phát hỏa!
Ngô Hạch: – Ai ra lệnh ấy?
Một tên quân: – Chính An Hòa Hầu!
Vũ Như Tô: – Chính An Hòa Hầu! Thế Cửu Trùng đài?
Lũ quân: – Cửu Trùng đài ư? Dã tràng xe cát! Cửu Trùng đài sắp là một đống tro tàn!
Vũ Như Tô: – Vô lí! Vô lí!
Ngô Hạch: – Rõ quân ngu muội! Đến đầu mày chả chắc, nói chi đến Cửu Trùng đài mà còn tin tưởng.
Vũ Như Tô: – Đời ta không quý bằng Cửu Trùng đài
Quân sĩ: – Giống vật không biết nhục.
Ngô Hạch: – Dẫn nó đi. (Chợt có ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào).
Vũ Như Tô (nhìn ra, rú lên)- Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng đài! (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng đài đã cháy!”)
Quân sĩ: – Thực đáng ăn mừng.
Vũ Như Tô (chua chát) – Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường!
(Trích hồi 5, Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng)
Câu 1. Lớp kịch trên nói lên mâu thuẫn gì?
Câu 2. Phân tích đặc điểm ngôn ngữ kịch trong lời thoại số 4 của Vũ Như Tô:
Vũ Như Tô (nhìn ra, rú lên)- Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng đài! (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng đài đã cháy!”)
Câu 3. Lớp kịch trên giúp người đọc hiểu gì về bi kịch gì của Vũ Như Tô?
Câu 4. Theo em, vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống mà Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong đoạn trích có ý nghĩa gì với cuộc sống ngày hôm nay. (trình bày trong khoảng 5-7 dòng)
ĐÁP ÁN
Câu 1: Xung đột được thể hiện thông qua 2 tuyến nhân vật: Vũ Như Tô >< quân nổi dậy mà đứng đầu là Ngô Hạch, An Hòa Hầu-> đó là mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuât thuần túy của Vũ Như Tô>< đời sống của nhân dân -> mâu thuẫn muôn đời giữa nghệ thuật >< đời sống.
Câu 2:
– Ngôn ngữ chú thích của tác giả: chỉ dẫn hành động của nhân vật ((nhìn ra, rú lên); chỉ dẫn thái độ của nhân vật (Vũ Như Tô (chua chát)), chỉ dẫn sân khấu (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng đài đã cháy!”) -> đã tạo nên môt sân khấu kịch hoành tráng dữ dội đầy kịch tính, tâm trạng đau đớn đầy thất vọng của Vũ Như Tô
– Lời thoại nhân vật:
+ Ngô Hạch và quân lính: hống hách, mỉa mai, đôi khi xỉ nhục, xúc phạm người nghệ sĩ Vũ Như Tô: Rõ quân ngu muội!, Giống vật không biết nhục, Thực đáng ăn mừng.
+ Vũ Như Tô: đau đớn đến tuyệt vọng: lặp lại nhiều lần than từ ôi/ lặp lại 2 lần câu: đốt thực rồi + câu hỏi tu từ: trời phú cho ta cái tài để làm gì?+ lời than liên tiếp: Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng đài -> cảm xúc dữ dội khi khát vọng nghệ thuật tàn tành, công trình nghệ thuật thành mây khói, tình tri kỉ lìa xa, dang dở -> Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ đắm say với nghệ thuật nay tuyệt vọng đau đớn.
Câu 3: Bi kịch của Vũ Như Tô: người nghệ sĩ say mê sáng tạo nhưng ảo tưởng và lầm lạc, đến khi ra pháp trường ông vẫn mơ hồ không hiểu mình tội gì.
Câu 4: Gợi ý trả lời :Vấn đề Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong tác phẩm có ý nghĩa muôn đời: không thể tồn tại thứ nghệ thuật cao siêu, thuần túy; nghệ thuật phải vì cuộc đời mà có, phục vụ cuộc sống.
Xem thêm : Đề đọc hiểu văn bản ngữ văn 12 có đáp án,  Hồn Trương Ba da hàng thịt, Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài read more

So sánh nhân vật Vũ Như Tô và nhân vật Lor-ca Ngữ văn 12

So sánh nhân vật  Vũ Như Tô và nhân vật Lor-ca  Ngữ văn 12
Đề bài :Cảm nhận của anh, chị về bi kịch của hai hình tượng nhân vật Vũ Như Tô trong trích đoạn Vĩnh biệt cửu trùng đài của Nguyễn Huy Tưởng và hình tượng Lor ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor ca của Thanh Thảo.
Hướng dẫn cách làm

  1. Giới thiệu Tác giả, tác phẩm

  2. Khái quát

– Bi kịch hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ triền miên về tinh thần không có gì giải thoát được. Nhưng theo văn học, bi kịch chỉ xảy ra khi có sự xung đột giữa khát vọng, hoài bão, lý tưởng chân chính với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho phép cá nhân thực hiện hoài bão, lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, sống trong dằn vặt, đau đớn, thậm chí dẫn đến cái chết thảm thương.
– Bi kịch của hai hình tượng nhân vật Vũ Như Tô và Lor ca là những người nghệ sĩ tài hoa nhưng đề có số phận oan nghiệt. read more

So sánh nhân vật Quản ngục với nhân vật Đan Thiềm

Đề bài :

So sánh nhân vật Quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân với Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng.

Dàn ý:
1. Ý khái quát

Giới thiệu khái quát về hai tác giả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy tưởng và hai tác phẩm, hai nhân vật được yêu cầu cảm nhận.

2 Cảm nhận về hai nhân vật.

Nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

– Là người nắm giữ quyền lực cao nhất trong nhà ngục nhưng lại có sở thích lạ lung: Thích chơi chữ. Chính sở thích cao quý này cùng tính cách nhẹ nhàng, biết giá người, biết trọng người ngay đã khiến cho Quản ngục vượt qua sự chi phối của địa vị xã hội để thể hiện tấm lòng biệt nhỡn liên tài với Huấn Cao. Hành động suốt nửa tháng đem rượu thịt cho Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông cho thấy Quản ngục sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để thể hiện tình yêu với cái đẹp, cái tài. Trong cảnh cho chữ, vẻ đẹp tâm hồn của Quản ngục một lần nữa được thể hiện rõ khi nhân vật này được cái đẹp từ nghệ thuật và từ thiên lương của Huấn Cao hướng thiện, thanh lọc. Câu nói Kẻ mê muội này xin bái lĩnh cùng cái bái lạy và dòng nước mắt đã cho thấy sự trong sang, tốt đẹp trong nhân cách của Quản Ngục.
– Quản ngục là một nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, có sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đi sâu làm rõ những phức tạp trong tâm lí của Quản ngục bằng bút pháp độc thoại nội tâm. read more

So sánh kết thúc truyện Chữ người tử tù và Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

So sánh kết thúc truyện Chữ người tử tù và Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Đề bài :
So sánh kết thúc truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân  và Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng
Mở bài:
+Giới thiệu hai tác giả và hai tác phẩm
+Giới thiệu luận đề : 2 văn bản với hai kết thúc đặc biệt, gửi gắm quan niệm nghệ thuật của tác giả.
Thân bài
1.. Lí luận về vai trò của “cái kết” trong mỗi tác phẩm tự sự: giải quyết mọi mâu thuẫn xung đột, chuyển tải thông điệp của tác giả, đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của tác phẩm tự sự.
2. Giới thiệu chung về Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Vĩnh biệt Cửu trùng đài (trích Kịch Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng), sau đó tóm tắt ngắn gọn cốt truyện dẫn tới cái kết của hai nhân vật (  ngắn gọn 7-10 dòng)
Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987), quê làng Nhân Mục, Hà Nội. Ông là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng mót thời và đổi tên thành Chữ người tủ tù. Vang bóng một thời khi Nguyễn Tuân in lần đầu (1940) gồm 11 truyện ngắn, là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.Truyện miêu tả tài năng và dũng khí, thiên lương cao cả kết tinh thành vẻ đẹp của Huấn Cao đồng thời làm rõ cái đẹp và cái thiện đã cảm hóa được cái xấu, cái ác và khẳng định tài và tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là nhà viết kịch nổi tiếng Việt Nam.Ông có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. “Vũ Như Tô” là một vở kịch lịch sử. Tác phẩm ” Vũ NHư Tô” là cách nhà văn thể hiện quan điểm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, giữa nghệ sĩ và nhân dân…Đây là một kiệt tác làm nên thành công của Nguyễn Huy Tưởng.Vị trí đoạn trích ở hồi 5 ( hồi cuối của tác phẩm)
Kết thúc truyện ẩn chứa quan niệm nghệ thuật mà tác giả gửi gắm, góp phần làm nên thành công của hai tác phẩm.
3. Phân tích, so sánh hai cách kết thúc của hai tác phẩm
a. Điểm giống nhau giữa hai kết thúc: Sau khi sáng tạo ra cái đẹp,nhân vật chính ra pháp trường, đón nhận cái chết.
Thông qua cái chết của nhân vật, tác giả gửi gắm quan niệm về số phận người nghệ sĩ giữa cuộc đời, quan niệm về nghệ thuật và đời sống.
Hai tác phẩm đều có cách kết thúc bất ngờ : Các chết của những thiên tài.
b. Điểm khác nhau:
+Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân): người sáng tạo ra cái đẹp chết nhưng cái đẹp vẫn được nâng niu, gìn giữ, vẫn bất tử và toả sáng dù được sinh ra nơi dơ bẩn, tối tăm. Người sáng tạo ra cái đẹp dù đi đến cái chết vẫn ung dung, thanh thản.
—> Vì đó là cái đẹp gắn với cái thiện, là cái tài gắn với cái tâm, cái đẹp ấy đã nâng đỡ con người (viên ngục quan) nên trở thành bất tử.
+Vĩnh biệt Cửu trùng đài: người sáng tạo ra cái đẹp chết, cái đẹp cũng bị huỷ diệt. Người nghệ sĩ ra đi với câu hỏi lớn, với mâu thuẫn không thể giải quyết.
-> Vì đó là cái đẹp đi ngược lại với quyền lợi, với cuộc sống của nhân dân, cái đẹp không vì con người nên bị huỷ diệt.Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở : Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống- NGHỆ THUẬT PHẢI VỊ NHÂN SINH thì nghệ thuật mới tồn tại và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.
Đánh giá về ý nghĩa của 2 kết thúc: dù có điểm khác nhau nhưng cả hai kết thúc đều hướng người đọc đến nhận thức về:
+ Mối quan hệ giữa cái đẹp giữa người nghệ sĩ với con người, với cuộc đời.
+ Chỉ khi nào người nghệ sĩ nhận thức đúng đắn vấn đề này thì sự sáng tạo của họ mới trở nên bất tử
—>> Đặt ra vấn đề về người nghệ sĩ và nghệ thuật chân chính.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
o   Huấn Cao: nhân vật trung tâm của một truyện ngắn lãng mạn
o   Vũ Như Tô: nhân vật trung tâm của một vở kịch lịch sử (bi kịch lịch sử)
3. Lí giải sự tương đồng  khác  biệt trong hai tác phẩm: Do  hoàn cảnh sáng tác, do phong cách và quan niệm của mỗi nhà văn về  nghệ thuật cuộc sống
Huấn Cao: Huấn Cao chết là sự hy sinh của người anh hùng được nhân dân kính trọng, ngưỡng mộ, thương xót. Trước giây phút ra pháp trường, ông vẫn sáng tạo cái đẹp, một con người rất mực tài hoa, coi thường cái chết. Đối với nhân dân, ông là người anh hùng, vị cứu tinh của họ. Căn nguyên cho bi kịch của Huấn Cao là sự tương phản giữa khát vọng, lí tưởng đẹp đẽ cao khiết về cái đẹp của người nghệ sĩ, người anh hùng và hoàn cảnh xã hội tăm tối (xã hội phong kiến suy tàn).
Vũ Như Tô: Vũ Như Tô chết dưới lưỡi dao của nhân dân bởi họ cho rằng ông với việc xây Cửu Trùng đài là nguyên nhân dẫn đến cảnh cơ cực, lầm than trong thiên hạ. Họ trách móc, oán thán, căm ghét ông. Nhân dân xem ông và bạo chúa là cùng một phe. Đối với nhân dân, Vũ Như Tô là một tội nhân. Căn nguyên cho bi kịch của Vũ Như Tô: không chỉ do sự mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật kì vĩ của ông và bối cảnh xã hội phong kiến thối nát mà còn do sự “ngây thơ”, “mơ mộng” của chính ông trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật cao siêu thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân. Vũ Như Tô đắm mình trong niềm đam mê nghệ thuật có phần mù quáng, ảo vọng xa rời thực tế, cuộc sống của nhân dân.
Qua 2 nhân vật, Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng đã:
–         Gửi gắm quan niệm nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc:
o   Nguyễn Tuân với quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp luôn chiến thắng bất diện, đi liền với cái thiện. Nó cảm hóa, thanh lọc tâm hồn con người. Tác giả gửi gắm phương châm sáng tạo nghệ thuật phải là sự thăng hoa của cái tài và tâm.
o   Nguyễn Huy Tưởng đặt ra vấn đề giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa khát vọng của người nghệ sĩ và khát vọng của nhân dân, từ đó khẳng định nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, vì con người. Người nghệ sĩ phải đặt lòng mình giữa cuộc đời.
–         Thể hiện tấm lòng tri âm, đồng cảm, trân trọng với số phận và vẻ đẹp của người nghệ sĩ trong lịch sử và cuộc sống
 
–         Bộc lộ phong cách nghệ thuật độc đáo của mình.
Kết bài: Gợi những suy nghĩ chung về vấn đề.
Xem thêm : read more

Đề thi thử THPT Quốc gia môn Văn có đáp án chi tiết

ĐỀ THI THỬ- KỲ THI THPT QUỐC GIA  Môn:  Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 180 phút (Không kế thời gian phát để)
ĐỀ  thi gồm 10 câu, trong 02 trang

Phẩn I. Đọc hiểu (3,0 điểm)

Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi từ Câu l đến Câu 4:
Một lần, một thương nhân được hỏi vì đâu ông có được thành công như ngày hôm nay. Câu trả lời của ông chỉ tóm gọn trong vài chữ: “Cố gắng thêm chút nữa!”. Thật vậy, sự khác biệt giữa những người bình thường và những người thật sự thành công có thể được phát biểu đơn giản bằng câu nói này.
Chúng ta có thể làm được mọi điều mình mong ước, đó hoàn toàn không phải là niềm tin thơ ngây mà là thực tế trong cuộc sống này. Có biết bao tấm gương những người nghèo khó vươn lên trở thành những vĩ nhân, những nghệ sĩ nổi tiếng, những doanh nhân thành đạt, những nhà chính trị đầy quyền lực… Và điểm giống nhau ở họ đó là luôn thực hiện những ước mơ bằng tất cả nỗ lực của mình, rồi sau đó cố gắng thêm một chút nữa.
Hãy để câu “Cố gắng thêm chút nữa!” trở thành phương châm sống của chúng ta.
Hãy rèn luyện cho mình sự kiên cường, quyết tâm theo đuổi những điều mình mong muốn. Và rồi, gắng sức thêm một chút nữa.
Hãy cho đi tất cả những gì chúng ta có, và cố gắng cho thêm một chút nữa.
Hãy chào đón những người chúng ta gặp bằng một nụ cười, và cố gắng mỉm cười nhiều hơn một
chút nữa.
Hãy thực hiện những nghĩa vụ của mình, và rồi nỗ lực thực hiện nhiều hơn một chút nữa.
Hãy hành động bằng tất cả khả năng, vào mọi lúc, và đừng quên cố gắng thêm một chút nữa.
 
(Nhiều tác giả, Hạt giống tâm hồn, tập 8, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2015)
Câu 1 (0,25 điếm). Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2 (0,5 điêm). Nêu nội dung chính của văn bản trên (diễn đạt trong 1- 2 câu).
Câu 3 (0,25 điểm). Đặt nhan đề cho văn bản.
Câu 4 (0,5 điểm). Anh/chị hãy viết đoạn văn (khoảng 5-7 dòng) trình bày suy nghĩ của mình về câu: Hãy rèn luyện cho mình sự kiên cường, quyết tâm theo đuổi những gì mình mong muốn”
Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời câu hỏi từ Câu 5 đến Câu 8:
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
(Trích Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ, Dần theo Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Giáo dục, 1985)
Câu 5 (0,25 điểm). Khổ thơ trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 6 (0,5 điểm). Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng ở hai câu thơ: “Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa/óng tre ngà và mềm mại như tơ”.
Càu 7 (0,25 điểm). Trong khổ thơ trẽn, tác giả đã thề hiện tình cảm gì đối với tiếng Việt?
Câu 8 (0,5 điểm). Hãy nêu ít nhất một việc mà anh/chị cho là nên làm để giữ gìn hoặc phát triển tiếng Việt trong thời điểm hiện nay (trả lời trong khoảng 5-7 dòng). read more