Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài
Bài văn mẫu tham khảo
Mục lục
Giới thiệu chung
Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi yới bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kế quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo : “Chéo lù ! Chéo lù !” (Trở lại ! Trở lại !). Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu : “Chéo lù ! Chéo lù !”. Hai tiếng : “Trở lại ! Trở lại !” chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm thể hiện lại cả cuộc đời người Mèo trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại Hình ảnh Tây Bắc đau thương dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi […]. Ý thiết tha với đề tài này là một lẽ quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc.
Truyện Tây Bắc gồm ba truyện (Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ) viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế Tây Bắc của tác giả. Tập truyện này được trao Giải Nhất giải thưởng của Hội Vần nghệ Việt Nam năm 1954-1955. .
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự đo của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ trước Cách mạng.
Dưới đây chỉ phân tích nửa đầu của truyện : quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và A Phủ, đây cũng là phần thành công hom cả của tác phẩm. Trong phần này, tác giả tập trung giới thiệu và miêu tả vể cuộc sống và số phận của hai nhân vật chính : Mị và A Phủ, thể hiện sức sống tiềm tàng và sự gặp gỡ của hai con người cùng một cảnh ngộ nô lệ.
Mị và cuộc đồi làm dâu gạt nợ trong nhà Pá Tra
Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác hoạ ngoại hình để gợi mơ nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lý pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. MỊ như gắn vào với những cảnh vật ấy tạo nên một cảnh sống riêng, cái mảng im lìm, tăm tối, cực nhoc của kiếp sống đoạ đày, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lý, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lý. Chân dung nhân vật được khắc hoạ bằng một nét đậm : “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cỏ ấy cũng cúi mật, mặt buồn rười rượi
Sau khi đã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác hoạ chân dung gây chú ýcho người đọc, tác giả mới kể lại câu chuyên Mị-về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra
Mị là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Không ít chàng trai đã theo đuổi cô gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sổng trong niềm sung sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc vế làm dâu gạt nợ cho nhù thống lý Pá Tra. Nguyên do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay tiến thống lý, bố của Pá Tra. Mị phải mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo, từ lúc sinh ra đời ! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ờ miền núi cũng như ở miền xuôi ; nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lộ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.
Tĩong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt : hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi MỊ định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết thì món nơ vẫn còn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế la Mị không đành lòng chết.
Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở MỊ. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì MỊ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Củng cố thêm cái ách áp bức nặng nể ấy còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị ràng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con Pá Tra đã “trình ma”, mình đã là người nhà nó thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này : “cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”, “Mỗi ngày MỊ càng không nói, lùi lũi nhu một con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Căn buồng Mị nằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ “một lỗ vuông bằng bàn tay” là một biểu tượng gắn với cuộc đòi nhân vật. Cái cửa sổ “Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình đành ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Thậm chí MỊ cũng khổng có ý nghĩ về cái chết nữa : “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến MỊ có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình vể làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với MỊ sự chuyển đổi của thời gian, trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cô một ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng ‘ không biết là sương hay là nắng”, cái sắc màu mờ mờ đùng đục của nhũng hoàng hôn đằng đẵng buồn tẻ và tê tái.
Trong đoạn đầu của , truyện, cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nể của những công việc khổ sai lặp đi lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng vá không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lắng tạo ra giọng điệu cớ chiêu sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.
Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị
Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh ? Cô Mị một thời trẻ đẹp, khát khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nò lệ, sống mà như đã chết. Không, ngòi bụt của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiếu tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút của nhà văn đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc.
Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh, một hoàn cảnh khá “điển hình” – đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân gợi dậy ở con người và thiên nhiên sực sống tiểm tàng và nhũng khắt vọng. Người Mông ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ đội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cẫ ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là mộl “đêm tình mùa xuân”. Tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bổi hồi “tai MỊ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Với Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc : “Ngày trước, MỊ thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. MỊ uốn chiếc lả trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết nào nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ vá những người lên đồng, người hát : “Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đừờng,
MỊ đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đẩu tiên là Mị sống lại với những hổi tưởng về những ngày xuân quá khứ, những kỷ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ. Bằng việc nhớ lại quá khứ, MỊ đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian”, sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi MỊ sống lại vứi niềm ham sống của tuôi trẻ : Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm Mị vẫn còn trẻ. MỊ muốn đi chơi”. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tướng đã tắt lim thì nav bỗng trỗi dậy. Phản ứng đầu tiên của Mị là ý nghĩ : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng MỊ đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo -. biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do – cứ theo sát diễn biến tâm trạng của MỊ. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cảnh (“tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”) đã xâm nhập thế giới nội tâm của MỊ, trở thành một hiện hữu ở trong tâm linh nhân vật : “Trong đầu MỊ đang rập rờn tiếng sáo”.
Đến đây, tính cách nhân vật có bước phát triển quyết định : từ những sôi sục trong tâm tư, MỊ đã hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa : “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đấy là hành động của sự thức tỉnh. MỊ thắp sáng ngọn đèn trong căn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiêng gọi cua lòng mình : quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng : A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì trỏi đứng Mị vào cây cột nhà : tóc MỊ xoã xuống A Sử cuốn luôn tóc lên cột, rồi y “tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Cái kỹ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử.
Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niểm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, “tiếng sáo đưa MỊ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” ở ngoài kia, đến nỗi MỊ “vùng bước đi”. Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhãi cỏ. MỊ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”, Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị.
Ngòi bút của Tô Hoài đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ờ niềm tin và sự trân trọng niềm khất khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đoạ đày đaụ khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.
Đến đây, giữa lúc xung đôt đã đến mức căng thẳng, tác giả tạm thời mở nút cho tình tiết này bằng sự xuất hiện của Ạ Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên làng bên với A Sử. Đây cũng là cách giới thiệu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự chú ý ngay từ đầu.
A Phủ, người ở trừ nợ cho nhà thống lý Pá Tra
Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiộn đột ngột, gây chú ý cho người đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử.
–Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.
-A Phủ đâu ? A Phủ đánh chết nó đi !
Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẻo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo, hả hê làm sao ! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt động từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồii đập : chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp).
A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa; A Phủ từng đã bị bắt bán xuống vùng người Thái,… Nhưng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc nên ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một khả năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc và khó khăn, nguy hiểm : “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác củạ A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người, Mông.
Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm : ‘một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trơi giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đối con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi .
Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể, sống động, giàu sức tố cáo về một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hut”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc quỳ chiu đòn chỉ im như tượng đá.
Sự gặp gỡ của hai người cùng cảnh ngộ nô lệ
Mị và A Phủ cùng cảnh nô lệ trong nhà Pá Tra, nhưng không phải họ đã gặp gỡ nhau ngay được, cho đến lúc một tình huống xảy đến với A Phủ. A Phủ đi chăn bò để hồ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phủ bị trói, MỊ vẫn chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyên diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi : “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, MỊ lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. MỊ bừng tỉnh, thoát khỏi tình trạng vô cảm, mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tỉnh ấy cũng lại là sự hồi tưởng. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được Mị nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã manh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Tình cảm và ý nghĩ ấy dẫn tới hành động quyết định của Mị : cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra.
Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến đây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến vói cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phân của mình và của những người nghèo khổ khác.
Mấy lời kết luận
Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mô típ cốt truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như cả trong văn học từ 1945 đến 1975. Nhưng tác phẩm gây được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho tầng lớp, giai cấp vừa có được những nét cá tính khá rõ. A Phủ thì mạnh mẽ, gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Mị giàu sức sống nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.
Ở truyện Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã có một bút pháp miêu tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế, nhất là ở phần đầu của truyện. Những đoạn miêu tả diễn biến trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh của lòng ham sống và khát vọng hanh phúc của MỊ là những đoạn văn đặc sắc. Điêu này càng có ý nghĩa khi ta đặt trong tình hình chungcủa văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp mà nghệ thuật miêu tả tâm lý chưa phải đã được chú ý đúng mức.
Vợ chồng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ trong sáng. Chất thơ ấy toát lên từ chủ đề của tác phẩm, từ tâm hồn đôn hậu, chất phác của nhân vật chính và thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc và đường nét uyển chuyển, hài hoà, những cảnh sinh hoạt, phong tục giàu chất trữ tình của đồng bào miền núi,…
Với Vợ chồng A Phủ và tập Truyện Tây Bắc, có thể nói lần đầu tiên bức tranh về cuộc sống ở miền núi được mô tả chân thực trong văn học nước ta. Trước Cách mạng tháng Tám, không phải không có những tác phẩm vể đề tài miền núi, nhưng chủ yếu vẫn là những “truyện đường rừng” mà trong đó miền nui hiện ra như một thế giới bí hiểm, với những tập tục lạc hậu và lạ lùng, những câu chuyện rùng rợn gợi trí tò mò của khách miền xuôi.
Tô Hoài đã vượt qua những hạn chế trong những tác phẩm đầu của mình viết về miền núi như Núi cứu quốc, Xuống làng. Nhà văn không còn dừng ở sự quan sát từ bên ngoài mà đã hoà nhập sâu sắc vào cảnh sống, vào số phận và cuộc đối các nhân vật của mình, tạo ra một cái nhìn và giọng điệu trần thuật gần gũi, thống nhất giữa người kể chuyện và nhân vật. Qiá trị nhân đạo của tác phẩm càng giàu thêm bởi ngòi bút của nhà văn đã đồng cảm, trân trọng và khơi dậy ở trong nhân vật của mình những phẩm chất đẹp đẽ, những giá trị chân chính, những khát vọng sống hạnh phúc và tự do. Đồng thời, tư tưởng nhân đạo cách mạng giúp cho nhà văn hướng đến sự mô tả quá trình giải phóng của nhân dân lao động theo con đường cách mạng một quy luật tất yếu. Các nhân vật anh Núp (Đất nước đứng lên), chị Tư Hậu (Một truyện chép ở bệnh viện), chị Sứ (Hòn Đất), chị út Tịch (Người mẹ cầm súng) sẽ là sự tiếp nối tự nhiên của Mị và A Phủ, trở thành những tính cách anh hùng.
(Tài liệu sưu tầm , tác giả Nguyễn Văn Long )
Xem thêm :Tuyển tập đề thi và những bài văn hay về vợ chồng a phủ