tỏ lòng

Phân tích bài thơ tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Tên tuổi của ông thuộc hàng những tác giả danh tiếng nhất thời Trần

Đề :  Phạm Ngũ Lão tuy chỉ để lại hai bài thơ nhưng tên tuổi của ông vẫn thuộc hàng những tác giả danh tiếng nhất của văn học thời Trần bởi thơ của ông đã toát lên hào khí Đông A – hào khí thời Trần – một trong những thời đại hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam.

   Hãy phân tích bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ nhận định trên.

   

Bài làm

 Thời đại nhà Trần là một thời đại oanh liệt với nhiều chiến công rực rỡ, ba lần đánh ta quân Nguyên Mông, một đội quân hùng mạnh thời bấy giờ. Hàng loạt sự kiện lớn lao: Hội nghị Bình Than, lời kêu gọi tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và hội nghị Diêu Hồng vang lên lời thề sát thát. Một thời với bao chiến công vang dội còn đó với Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… thời mà hào khí Đông A toả ngút trời và đi vào những áng văn đương thời với hình tượng người tráng sĩ, người anh hùng vệ quốc hiện lên vừa gian dị chân thực, vừa kì vĩ hoành tráng mang tầm vóc ngang hàng với trời đất sông núi. Hình tượng ấy được khái quát trong bài thơ Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão, đó là hình tượng tiêu biểu cho cả thế hệ thanh niên thời Trần, vừa có tính cá biệt trong tầm vóc, ý chí Phạm Ngũ Lão – một hình tượng nghệ thuật sống động hấp dẫn. Đó chính là tấm gương cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau noi theo. read more

Đề kiểm tra học kì 1 môn Ngữ văn lớp 10 có ma trận

MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ I
 LỚP 10MÔN: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 90 phút (Không kể thời gian giao đề)

 

  1. MỤC TIÊU KIỂM TRA
  2. Kiến thức:

– Thu thập thông tin để đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng trong bài kiểm tra chất lượng học kỳ I, môn Ngữ Văn 10, tập 1.
– Khảo sát bao quát một số nội dung kiến thức, kĩ năng với mục đích đánh giá năng lực đọc – hiểu và tạo lập văn bản của HS thông qua hình thức kiểm tra tự luận.
– Cụ thể, đề kiểm tra nhằm đánh giá trình độ HS theo các chuẩn sau:
Nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao các đơn vị kiến thức:
+ Phần đọc – hiểu
+ Kiến thức văn học: Văn bản đọc hiểu trong chương trình HKI. read more

Đề đọc hiểu bài thơ Tỏ lòng và Cảm hoài

Đề 1:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
 Phiên âm
 Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch thơ
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
( Tỏ lòng, Trang 115,116, Ngữ văn 10, Tập I,NXBGD, 2006)
1/ Nêu ý chính của văn bản ?
2/ Chữ hoành trong bản phiên âm thuộc từ loại gì ? Nêu ý nghĩa của từ  « hoành »  trong văn bản ?
3/ Câu thơ Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sử dụng biệp pháp nghệ thuật gì ? Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp nghệ thuật đó.
4/ Qua văn bản, viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ những bài học được rút ra dành cho tuổi trẻ hôm nay.
Trả lời:
1/ Ý chính của văn bản: Bài thơ thể hiện vóc dáng hùng dũng và khát vọng hào hùng của người tráng sĩ đời nhà Trần.
2/ Chữ hoành trong bản phiên âm thuộc từ loại động từ. Hiếm có bài thơ chữ Hán nào có từ mở đầu bài thơ bằng động từ. Dùng từ hoành ( cầm ngang), ngay từ đầu bài thơ đã hiện lên một tráng sĩ dọc ngang trời đất, xứng tầm với vũ trụ. Hình ảnh thơ trở nên kì vĩ, mạnh mẽ.
3/Câu thơ Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sử dụng biệp pháp nghệ thuật : so sánh và khoa trương. Hiệu quả nghệ thuật : tác giả ca ngợi sức mạnh của quân dân nhà Trần, đồng nghĩa với việc tự hào về sức mạnh dân tộc, thể hiện khí thế của Hào khí Đông A( hào khí nhà Trần )
4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :
-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành ;
-Nội dung: từ hình ảnh người tráng sĩ trong bài thơ, thí sinh suy nghĩ về các bài học như: tiếp tục lập công danh trong thời bình ; sống phải có hoài bão, ước mơ điều lớn lao; gắn khát vọng, lợi ích bản thân với lợi ích Tổ quốc…
 
Đề 2:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
(…) Hào khí Đông A là một cơn gió mạnh, một mặt nó là con đê chắn giữ cho vận nước vững bền( chống lại mọi kẻ thù xâm lược), một mặt nó khơi nguồn cho bao nhiêu tiềm lực tinh thần ẩn giấu. Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão như một hạt muối kết tinh từ nước biển và ánh sáng mặt trời của một thời đại vẻ vang trong lịch sử, một thời đại đặc sắc của thơ ca Việt Nam.
( Trích Văn bản Ngữ văn 10, gợi ý đọc hiểu và lời bình, Vũ Dương Quỹ-Lê Bảo, trang 75, NXBGD 2006)
1/ Anh/ chị hiểu Hào khí Đông A là gì ?
2/ Cụm từ chống lại mọi kẻ thù xâm lược thuộc thành phần gì trong câu văn?
3/ Xác định biện pháp tu từ về từ trong văn bản. Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp đó.
4/ Người viết tỏ thái độ như thế nào khi nhận xét về bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão ?
Trả lời:
1/ Hào khí Đông A là hào khí thời Trần, tức khí thế chống ngoại xâm của quân dân đời nhà Trần, vì chữ Trần có thể đọc theo lối chiết tự là Đông A.
2/ Cụm từ chống lại mọi kẻ thù xâm lược thuộc thành phần chêm xen.
3/ Biện pháp tu từ về từ trong văn bản là so sánh. Cụ thể :
Hào khí Đông A – một cơn gió mạnh – con đê chắn giữ
Thuật hoài – một hạt muối kết tinh từ nước biển và ánh sáng mặt trời
Hiệu quả nghệ thuật: tạo hình ảnh cụ thể, gợi sự liên tưởng phong phú trong tâm trí người đọc về vẻ đẹp của Hào khí Đông A và giá trị bài thơ Thuật Hoài.
4/ Người viết tỏ thái độ ca ngợi, đánh giá rất cao vị trí bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão trong văn mạch của dân tộc.
 
Đề 3:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
 
Cảm hoài
            (Đặng Dung)
Phiên âm
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Dịch thơ
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
            ( Tản Đà dịch)
1/ Nêu chủ đề của văn bản trên?
2/ Ở 6 câu đầu, tác giả tự cảm nhận về mình qua những đặc điểm nào ?
       3/ Xác định phép đối trong 2 câu thực và nêu hiệu quả nghệ thuật của phép đối đó.
4/ Qua văn bản, viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) phân tích vẻ đẹp hình ảnh thanh gươm trong câu kết của bài thơ ?
Trả lời:
1/Chủ đề của văn bản : Bài thơ giải bày nỗi lòng trước hoàn cảnh và thời cuộc, đồng thời thể hiện tâm trạng bi tráng và ý chí quật cường của tác giả- người anh hùng thất thế.
2/ Ở 6 câu đầu, tác giả tự cảm nhận về mình qua những đặc điểm :
Một mặt, tác giả ý thức được giới hạn của mình : đã già rồi- thời gian không chờ đợi. Câu thơ mở đầu hình thức là câu hỏi nhưng mang âm hưởng của một tiếng than, một tiếng thở dài ngậm ngùi ;
Mặt khác, tác giả tự nhận mình là anh hùng, với chí khí lớn, có thể nâng trục đất ( phù địa trục)
Đó là hai nét tương phản nhau trong chân dung của Đặng Dung.
3/Phép đối trong 2 câu thực : đối lập giữa “ anh hùng” và “ đồ điếu”
Hiệu quả nghệ thuật của phép đối : Nhà thơ bày tỏ quan niệm của mình: Thời vận có ý nghĩa quan trọng, làm thay đổi thế sự, thay đổi sự nghiệp. Thời vận nằm ngoài khả năng của con người.
4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :
-Hình thức : đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành ;
-Nội dung : Vẻ đẹp hình ảnh thanh gươm trong câu kết của bài thơ: Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.Thanh gươm của nhà thơ, vì thời vận, không được vung lên để giết giặc cứu nước. Cũng như người tráng sĩ, thanh gươm của câu thơ hiện lên cô độc, âm thầm trong đêm. Nhưng hành động mài gươm dưới trăng thể hiện một tráng chí lẫm liệt, một ý chí quyết tâm đánh giặc từ khi còn trẻ, đến khi tóc đã bạc ; ngày đánh, đêm đánh. Đó là khát vọng về một ngày được vung gươm nơi chiến trường, làm cho bài thơ mang vẻ đẹp hùng tráng ngay trong giây phút bi thương nhất. Đó cũng là hào khí Đông A trong thơ Đặng Dung read more

Giáo án bài Thuật hoài ( Tỏ lòng) soạn theo 5 hoạt động

XÂY DỰNG BÀI HỌC MINH HỌA THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
BÀI:           THUẬT HOÀI
Bước 1: xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học
Kĩ năng đọc hiểu một bài thơ trung đại của Việt Nam.
Bước 2: xây dựng nội dung chủ đề bài học
Văn bản thơ: Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão.
 Bước 3: xác định mục tiêu bài học
     *Kiến thức:
+ Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
+ Đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
* Kĩ năng:
+ Huy động những tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, ngôn ngữ … để đọc hiểu văn bản.
– Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại:
Nhận diện thể thơ và giải thích ý nghĩa của việc sử dụng thể thơ.
+ Nhận diện đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
+ Nhận diện và phân tích ý nghĩa của hình tượng thơ.
+ Nhận diện và phân tích tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
+ Nhận diện, phân tích và đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ trong chủ đề (hình ảnh, chi tiết, biện pháp tu từ, vần, nhịp…).
– Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo những câu thơ hay.
– Khái quát những đặc điểm của thơ trung đại qua bài đọc.
– Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những bài thơ trung đại khác của Việt Nam; nêu lên những kiến giải, suy nghĩ về các phương diện nội dung, nghệ thuật của các bài thơ; viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về những bài thơ; rút ra những bài học về lí tưởng sống, cách sống từ những bài thơ đã đọc và liên hệ, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống của bản thân.
* Thái độ:
– Yêu con người, yêu Tổ quốc.
– Có ý thức xác định lẽ sống, lí tưởng sống cao đẹp.
– Có ý thức trách nhiệm đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện tại.
* Định hướng góp phần hình thành các năng lực
– Năng lực giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết)
– Năng lực thẩm mĩ (cảm thụ và sáng tạo)
– Năng lực hợp tác
– Năng lực tự học…
 
Bước 4: xác định và mô tả mức độ yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/bài tập cốt lõi có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học read more

Đề thi học sinh giỏi : Cảm hứng yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam

Bộ đề ôn luyện thi học sinh giỏi môn Văn. Tổng hợp những đề thi học sinh giỏi Ngữ văn lớp 10
Đề ra: Về cảm hứng yêu nước của văn học Việt Nam thời Trung đại sách giáo khoa Ngữ    Văn 10 có viết:
“ Điều đáng lưu ý là văn thơ nói đến những nội dung yêu nước đã không chỉ tồn      tại ở dạng quan niệm, tư tưởng đơn thuần mà quan trọng hơn là sự tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc”.
Hãy chứng minh và phân tích 1 số tác phẩm để làm sáng tỏ.
 
 BÀI LÀM
Trong dòng chảy của nền văn học dân tộc, cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo tựa như hai mạch ngầm xuyên suốt, cuôn chảy qua bao chặng đường lịch sử. Đặc biệt trong thời kì văn học Trung đai trước nhiều biến cố lịch sử lòng yêu nước ấy lại hừng hực cháy trong tâm hồn các thi nhân để rồi tuôn trào nơi đầu bút lực những nỗi lòng,tâm sự ngân lên như những nốt nhạc trầm bổng trong 1 bản đàn. Có lẽ chăng xuất phát từ đó mà sách giáo khoa Ngữ văn 10 đã cho rằng:
“ Điều đáng lưu ý là văn thơ nói đến những nội dung yêu nước đã không chỉ tồn tại ở dạng quan niệm, tư tưởng đơn thuần mà quan trọng hơn là sự tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc”.
Thế nào là cảm hứng yêu nước? Nói đến cảm hứng yêu nước là nói đến nội dung tình cảm trong mỗi tác phẩm tình văn học. Cảm hứng yêu nước được bộc lộ qua thơ bằng muôn hình vạn trạng. Đó là tình yêu quê hương, đất nước, yêu cảnh sắc thiên nhiên, xứ sở. Đó là ý chí chống xâm lăng vì khát vọng ấm no, hạnh phúc, được sống trong tự do, độc lập, hòa bình bền vững. Đó là niềm tự hào về truyền thống lịch sử, truyền thống văn hiến Việt Nam lâu đời, giàu bản sắc. Đó còn là ý thức tự lập, tự cường, xây dựng và bảo vệ đất nước muôn đời giàu đẹp.
Bước vào kỉ nguyên xây dựng quốc gia phong kiến độc lập sau hàng nghìn năm đô hộ, biểu hiện trước hết của tư tưởng yêu nước là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc, ý thức về chủ quyền độc lập. Đó là lời thơ hào sảng trong “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt:
“Sông núi nước nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”.
Chủ quyền độc lập thiêng liêng bất khả xâm phạm được khẳng định qua những câu thơ chắc nịch, giọng thơ đanh thép, hùng hồn. Đó là một “bài thơ thần”, xứng đáng là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước Đại Việt.
Đến bài “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi- bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, chân lí lịch sử ấy nâng lên ở một tầm cao mới với cái nhìn toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Từ việc dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền độc lập ở bài “Nam quốc sơn hà” thì bài “Cáo bình Ngô” đã tiếp nối và phát triển lên thành chân lí muôn đời: Đại Việt là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có biên giới riêng, có phong tục tập quán riêng, có quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang và cùng tồn tại với các vương triều phong kiến phương Bắc. Sự phát triển ấy về khái niệm quốc gia dân tộc được thể hiện rõ nét qua tư tưởng lấy dân làm gốc, tập hợp sức mạnh của nhân dân để xây dựng lực lượng nòng cốt, tạo dựng sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
Với ý thức sâu sắc như vậy về quốc gia, dân tộc, khi tổ quốc bị xâm lăng, yêu nước là căm thù giặc sục sôi, là tinh thần quyết chiến quyết thắng để bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc, là đoàn kết toàn dân “Tướng sĩ một lòng phụ tử”, bền gan chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.
Yêu nước không chỉ dừng lại ở đó, mà khi đất nước thanh bình, nội dung của tư tưởng yêu nước thể hiện ở khát vọng xây dựng đất nước hòa bình và hạnh phúc lâu bền:
“Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”.
Hai câu thơ thể hiện cho ước mơ, niềm tin vô hạn của tác giả và cũng là ước mơ ngàn đời của nhân dân về một đất nước thái bình, thịnh trị, trường tồn đến muôn đời. Đó là hào khí sục sôi, vang dội của một đời, của một thời, sáng ngời cả hồn thiêng sông núi, âm vang đến muôn đời.
Nhưng sức sống lâu bền của một tác phẩm văn chương khồn chỉ ở chỗ là chứa đựng nội dung tư tưởng đơn thuần mà điều cốt yếu hơn, quan trọng hơn là những nội dung, tư tưởng tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc. Với những hoàn cảnh khác nhau, những cảnh ngộ khác nhau, cá tính sáng tạo khác nhau cảm hứng yêu nước được thể hiẹn dưới nhiều dọng điệu khác nhau. Mỗi tác phẩm là một nốt nhạc, có nốt trầm, có nốt bổng hòa quyện làm nên một bản anh hùng ca bất diệt, ca lên đến muôn đời âm vang của thời đại.
Đó là giọng điệu dõng dạc, hào sảng động vọng trong không gian với khí thế ngùn ngụt, hình ảnh thơ tráng lệ, kì vĩ trong bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt:
“Sông núi nước nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”.
Là giọng thơ đĩnh đạc, lời văn rắn rỏi, chắc nịch như khắc, như tạc qua bài “Cáo bình Ngô”:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Những tình cảm nồng cháy như được khơi dậy qua từng câu, từng chữ, từng lời thơ, ánh lên trong tâm hồn mỗi người một niềm tự hào mãnh liệt về dáng đứng oai hùng của dân tộc trong lịch sử.
Ta như hừng hực bầu máu nóng trong những lời nói gan ruột của Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ” : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu trăm thây phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Đó là nỗi đau đớn, xót xa đến xé lòng của vị tướng sĩ hét mực yêu nước. Để rồi từ khí thế xung thiên ấy ta như nghe vang vọng tiếng đồng thanh: “Quyết đánh!” của các bô lão trong Hội nghị Diên Hồng, như thấy rực cháy ánh lửa quân sĩ tướng tá sáng bừng dưới ánh trăng mài gươm giáo để xung trận, thích lên cánh tay hai chữ “Sát thát” với một ý chí kiên định. Tinh thần, ý chí sắt đá, kiên định ấy đã làm nên chiến thắng quân Mông- Nguyên vang dội núi sông trong lịch sử.
Nỗi căm thù, uất hận vút lên thành lời, thành những bản cáo trạng đanh thép: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con nhỏ xuống dưới ầm tai vạ”, trở thành tiếng thét vang dội, thành lời thề quyết chiến:
“Ngẫm thù lớn hà đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”.
Ta như thấy hiện lên trước mắy không gian hào hùng, khí thế, chiến công nối tiếp chiến công làm nên một bản tráng ca ngân lên cao vút, dài vô tận khi đọc những vần thơ hả hê của Nguyễn Trãi trong “Cáo bình Ngô”:
“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hỏng sụt toang đê vỡ…”
Giọng thơ cuồn cuộn như triều dâng thác đổ,. Niềm tự hào, kiêu hãnh, niềm vui sướng bất tận, hả hê tạo ra nhạc điệu bay bổng dồn dập, âm thanh giòn giã nối đuôi nhau mạnh mẽ như có gươm đao loảng xoảng trong một trận tuyến vang trời.
Nội dung yêu nước trong văn học trung đại được thể hiện bằng những cảm xác, giọng điệu đa dạng, không chỉ là lòng căm thù giặc sục sôi, tinh thần quyết chiến quyết thắng hừng hực, như một nét vẽ tinh tế mà sâu sắc về lòng yêu nước sự hổ thẹn trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão cũng là một cách tỏ bày độc đáo:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.
“Thẹn” vì chưa trả hết nợ công danh, lập công báo quốc; thẹn vì chưa có được tài năng như Gia Cat Lượng để phò vua giúp dân. Nỗi “thẹn” ấy là biểu hiện cao đẹp cho lí tưởng sống, hoài bão sống lớn lao của người con trai đời Trần làm sáng bừng lên hào khí Đông A một thời.
Đó còn là nỗi niềm hoài vọng về quá khứ đã qua trước di tích vẫn còn để rồi tiếc ngậm ngùi trong lòng một niềm tiếc nuối:
“Đến nay sông nước tuy chảy hoài, mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.
Là sự suy ngẫm về lẽ tồn vong của muôn đời, sự thành bại của sự nghiệp cũng ngân lên giọng điệu hùng tráng:
“Giặc tan muôn thuở thái bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.
Và khi đất nước trở về thái bình, thịnh trị lòng yêu nước ấy lại hóa thân vào sông núi, một cành hoa, một cây cỏ, một cánh chim trời chao liệng:
“Nước biếc, non xanh, thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt hạc, khách bên lầu”.
Trong cảnh nước mất nhà tan, nỗi đau đời, uất hận khi vận nước đổi thay dồn lại, nén chạt tạo nên giọng điệu trầm uất, bi tráng. Bài thơ “Cảm hoài” nổi tiếng của Đặng Dung với hai câu kết:
“Thù nước chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày”.
Đặng Dung đã kí thác cho đời thăm thẳm một nỗi đau đời, một niềm bi phẫn, trầm uất, đắng cay, xót xa vì người anh hùng sinh lầm thế kỉ. Hình ảnh một dũng tướng mái đầu đã bạc mải miết mài gươm dưới ánh trăng khơi gợi biết bao cảm xúc liên tưởng, chẳng khác nào “con ngựa già còn ham rong ruổi’. cái ánh sáng lóe lên trong câu thơ thần là ánh sáng vằng vặc của bóng trăng khuya giữa bầu trời mênh mông, bát ngát, cũng là ánh sáng lưỡi gươm chính khí chưa cất lên được để tiêu diệt kẻ thù, cũng là ánh sáng của tấm lòng yêu nước trung trinh của nhà thơ. Lời đã hết, bài thơ đã khép lời mà cảm xúc thơ vẫn lai láng, bồi hồi, xúc động. Đó là bài thơ có giọng điệu bi tráng bậc nhất trong thơ ca Việt Nam thời Trung đại- tiếng lòng của một dũng tướng chiến bại.
Sống trong những triều đại khác nhau, chịu sự chi phối khác nhau của lịch sử, đồng thời mỗi người với một tâm tính, một cá tính sáng tạo đã làm nên những cảm hứng riêng về cảm hứng yêu nước. Có nỗi buồn, có niềm vui, niềm say mê hứng khởi, có giận thương, có buồn tủi, có bâng khuâng hổ thẹn, có rạo rực hả hê…Nguồn cảm hứng vô tận được thể hiện bằng nhiều cách nói, nhiều giọng điệu riêng. Có giọng điệu hùng tráng ở nhiều cấp độ, hình thái khác nhau. Có giọng điệu bi tráng, phẫn uất thành tiếng than, lời gọi. Có giọng điệu nhẹ nhàng, say sưa trước cảnh sắc thiên nhiên, đất nước… Tất cả tạo nên sự đa thanh, đa sắc, thể hiện sâu sắc, phong phú nội dung tư tưởng yêu nước- một vẻ đẹp rực rỡ của tâm hồn dân tộc./.
Xem thêm : Tuyển tập đề thi học sinh giỏi môn văn có đáp án và bài văn mẫu : http://vanhay.edu.vn/hoc-sinh-gioi read more

Đề thi học sinh giỏi :Hào khí Đông A qua một số tác phẩm đã học

Bộ đề ôn luyện thi học sinh giỏi môn Văn. Tổng hợp những đề thi học sinh giỏi Ngữ văn lớp 10
Đề ra: Qua một số tác phẩm đã được học trong chương trình phổ thông anh chị hãy làm  sáng tỏ “ Hào khí Đông A”
BÀI LÀM
 
“ Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập” có triều đại nào không trải qua những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, có thời đại nào không vang dội những chiến công nức lòng, có người dân nào không sôi sục trong huyết quản một dòng máu yêu thương tha thiết. Tinh thần ấy được biểu hiện rõ nét qua Hào khí Đông a làm ngời sáng cả trang sử vàng dân tộc, kết đọng lại qua từng vần thơ bất hủ.
Trong tiếng Hán chữ Trần gồm hai bộ A và Đông, như vậy có thể hiểu Hào khí Đông A là hào khí thời nhà Trần, là chí anh hùng lẫm liệt thời đại nhà Trần, là không khí hào hùng của những trận chiến đấu và chiến thắng quân Mông – Nguyên xâm lược.
Thời đại nhà Trần(1225-1400) là một mốc son chói lọi trong bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc ta với ba lần đánh thắng quân Nguyên – Mông. Làm sao có thể lí giải được những chiến thắng huyền thoại ấy của một đất nước nhỏ bé trước một thế lực tàn bạo như quân Mông – Nguyên; “ Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu cỏ cây chết rạp tới đó” nếu như không nghe qua những lời kể hùng tráng của các thi sĩ, những nỗi lòng của bậc tướng sĩ trướ thế sự quốc gia, hay đơn giản chỉ là một kẻ “ khách” không thôi. Tất cả đều rần rật cháy lên ngọn lử của Hào khí Đông A, ngùn ngụt một niềm kiêu hãnh tự hào:
“ Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.”
(  Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân hùng khí nuốt trôi trâu )
( “ Thuật hoài” _ Phạm Ngũ Lão)
 
Câu thơ dịch từ “ hoàmh sóc” bằng từ “ múa giáo” chưa thật sat nghĩa. “ Múa giáo” thiên về biểu diễn cung kiếm, tay nghề, gợi một vẻ phô trương, đưa chủ thể vào thế động làm mất đi cường độ, nội lực của hình ảnh thơ. Còn nguyên văn lời thơ là “ hoành sóc”-cắp ngang ngọn giáo, chỉ 2 tiếng mà đầy sức gợi, gợi một dáng đứng tự tin, kiêu hãnh, gợi một phong thái đường hoàng,đĩnh đạc, gợi một ý chí sắt, một tinh thần thép chủ động trước tình thế, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Tư thế ấy, dáng đứng ấy dường như bất tử khi đặt trong sự rộng lớn của núi sông. Đây không phải là một vị tướng trấn giữu một thành trì hay một vùng biên ải mà trấn giữ cả non sông, đất trời với tư thế hiên ngang, kì vĩ sánh với núi sông. Trước sự rộng lớn của đất trời con người không trở nên nhỏ bé mà ngược lại càng trở nên tầm vóc hơn, dường như trong tư thế “cắp ngang ngọn giáo” ấy con người đã làm chủ cả thiên nhiên, đất trời. Sức mạnh ấy lan tỏa từ chiều sâu chuyển sang chiều cao của không gian, từ một người mà tới muôn người: “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Từ một thế đứng hiên ngang, điệu thơ đã thăng hoa một cách rực rỡ và tỏa sáng hào quang lên tận trời xanh, át cả ánh sáng sao Ngưu- một khí thế xung thiên đã đưa đất nước đi lên từ trong kiên cường, lầm than, vùng dậy từ trong biển máu để chiến thắng những thế lực cường bạo như quân Nguyên – Mông. Hào khí Đông A ấy không chỉ rần rật cháy qua những nỗi niềm sục sôi bầu màu nóng của lòng căm thù giặc, không chỉ hân hoan trong lòng tự hào, tự tôn dân tộc mà còn tha thiết qua chữ “thẹn”. “ Thẹn” là cái hổ thẹn, sự thẹn thùng và đặt trong trường hợp này vị tướng sĩ ấy đã “ thẹn” vì thấy kém cỏi trước tài năng của Gia Cát Lượng. Đó là một nỗi thẹn cao cả tiêu biểu cho chí khí người con trai đời Trần, nỗi “thẹn” ấy vì một lẽ thật lớn lao, “thẹn” vì chưa trả được nợ công danh, chưa báo đền nợ nước vì sức mạnh không được như Gia Cát Lượng giúp nhà Hán ngày xưa.
Hào khí Đông A không dừng lại ở lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần quật khởi chóng xâm lăng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc mà hơn thế nữa nó còn là khía cạnh tâm sự sâu kín của con người, cũng là tâm trạng của thế hệ trai tráng lúc bấy giờ. Lúc nào cũng canh cánh thù nhà nợ nước, cũng đặt sự nghiệp gánh vác sự an nguy của đất nước trên đôi vai của mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng lưu danh sử sách đến muôn đời, dội vào lòng mai hậu một niềm tự hào dấy lên một khí thế hào hừng của lịch sử khi đi qua những chiến địa mang huyền thoại của lịch sử dân tộc.
Cũng trong domngf mạc cảm xúc ấy Trần Quang Khải đã gợi lại những âm vang chiến trận với những chiến thắng lẫy lừng qua bài thơ “ Phò giá về kinh”:
“ Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.”
Hai câu thơ đầu làm sống dậy không khí hào hùng, hồ hởi của hai cuộc kháng chiến diễn ra tại hai chiến địa oai hùng, thiêng liêng: Chương Dương, Hàm Tử. Những từ ngữ “cướp giá giặc”, “bắt quân thù” gợi lại chiến thắng oai hùng, chiến công nối tiếp chiến công. Tất cả dấy lên tjhành ngọn sóng đẹp đẽ nhấn chìm, cuốn trôi những thế lực quân thù mạnh như vũ bão. Từ những chiến thắng vang dội ấy tác giả thể hiện một niềm tin vô hạn, một ước mơ vĩnh hằng vào tương lai :
“ Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.”
Hai câu thơ thể hiện cho ước mơ của tác giả và cũng là ước mơ ngàn đời của nhân dân về một đất nước thái bình, thịnh trị, trường tồn đến muôn đời. Đó là hào khí sục sôi, vang dội của một đời, của một thời, sáng ngời cả hồn thiêng sông núi, âm vang đến muôn đời.
Bốn dòng thơ là sự kết tinh của hào khí thời đại, hừng hực, bừng sáng cả một trang vàng lịch sử. Sừng sững giữa đất trời một dáng đứng uy nghiêm, lẫm liệt của vị anh hùng, hiên ngang, sánh tầm vũ trụ giữa trận mạc binh đao.
Và để rồi hân hoan trong niềm vui thắng lợi ấy Trương Hán Siêu lại ngậm ngùi hạ bút, viết nên nỗi lòng qua những vần thơ “ Bạch Đằng giang phú”.  Đó là một bức tranh tuiyệt đẹp về hào khí một thời:
“Thuyền tàu muôn đội
Tinh kì phấp phới
Hùng hổ sáu quân
Giáo gươm sáng chói.”
Cả một chiến trận với một hùng khí mạnh mẽ, kiên cường dội về với núi sông, dội về với người đời sau bằng những vần thơ như tô, như vẽ. Dường như cả chiến địa bừng sáng bởi những chiến công khiến cho Trương Hán Siêu phải thốt lên trong niềm cảm khái:
“Khác nào
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
Niềm vui nối tiếp niềm vui, lòng tự hào tự tôn dân tộc ấy còn được nâng lên một tầm cao mới qua hai câu thơ:
“ Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.”
Dòng sống lấp lánh ánh lửa binh sĩ trong đêm với lời thề vang vọng, quyết đền nợ nước trả thù nhà, dòng sông như còn in máu quân thù khi bại trận, “giày xéo lên nhau mà chết”. Dòng chảy ấy sẽ chảy đến ngàn đời khắc ghi một thời kì hoàng kim của lịch sử.
Trong niềm hân hoan với núi sông, đắm chìm trên trận địa linh thiêng có màu cờ tổ quốc ấy, tác giả đã ca lên những vần thơ ngời sáng một chân lí đẹp đẽ:
“ Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
Câu thư là một lời ca, một lời triết lí làm nên nét xoáy trong tâm hồn vị tướng sĩ -nhà thơ. Đồng thời lời thơ còn như khắc, như tạc sự vĩnh hằng, bất diệt của chiến thắng sông Bạch Đằng- một dòng sông chảy mãi đến muôn đời. Kết thúc tác phẩm là sự hụt hẫng cuỉa người anh hùng trước thời cuộc làm cho hào khí Đông A càng mang tính chất bi hùng của một công dân có trách nhiệm đối vợi nợ nước thù nha, lập công báo quốc.
Khi nhìn lại cả một chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta, nhà văn Nguyễn Thành Trung đã cảm khái mà thốt lên rằng: “ Nếu như phải vẽ lại lịch sử Việt Nam thì trang nào cũng phải vẽ một thanh gươm tự vệ và tô đậm một màu máu.” Thật vậy, Hào khí Đông A rừng rực trong lịch sử, bừng lên qua từng trang thơ và lan tỏa đến muôn đời. Vẫn là hào khí mạnh mẽ của hồn thiên sông núi ấy nhưng mõi tác phẩm là một tấc lòng riêng, một cá tính sáng tạo riêng làm nên sự đa dạng của văn học đời nhà Trần tiêui biểu cho hình ảnh người con trai đời Trần. Hào khí ấy đã tiếp thêm sức mạnh để ngọn sóng dân tộc cuộn trào quia từng trận chiến.
Xem thêm : Tuyển tập đề thi học sinh giỏi môn văn có đáp án và bài văn mẫu : http://vanhay.edu.vn/hoc-sinh-gioi read more

Đề thi kết thúc học kì 1 môn Ngữ văn lớp 10

ĐỀ THI HẾT HỌC KỲ I NĂM HỌC 2016-2017 ,MÔN THI: NGỮ VĂN – KHỐI 10
Đọc hiểu bài Tấm Cám, Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão.
ĐỀ THI CHÍNH THỨC                Thời gian: 90 phút, không kể thời gian giao đề
( Đề thi gồm 2 câu 1 trang )                        
Họ và tên:  …………………………………….           Số báo danh: ……………
Câu 1 (4,0 điểm)
Đọc đoạn văn và trả lời các câu hỏi bên dưới:
“Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Dì ghẻ là người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng vất vả, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn say lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám lại được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng”. read more

Đề kiểm tra học kì 1 Ngữ văn 10

ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I MÔN: VĂN – LỚP 10 NĂM HỌC 2016 – 2017
Đọc hiểu về bài ca dao, Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng- Ngữ văn 10
Thời gian làm bài: 90 phút (không kể thời gian giao đề)
Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

“ Cây đa cũ, bến đò xưa

Bộ hành có nghĩa nắng mưa vẫn chờ.”

(Ca dao)

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên? (0,5 điểm)
Câu 2. Biện pháp tu từ chính được sử dụng trong văn bản (0,5 điểm)
Câu 3. Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó? (0,5 điểm)
Câu 4. Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0,5 điểm)
Câu 5. Xác định chủ đề của văn bản trên? (0,5 điểm)
Câu 6. Nội dung của văn bản đề cập đến tình cảm và phẩm chất gì của người lao động? (0,5 điểm)
Câu 7. Viết một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng) về phẩm chất đó của con người lao động xưa? (1,0 điểm)
Phần II. Làm văn ( 6,0 điểm)
Cảm nhận của em về bài thơ Tỏ lòng – (Thuật hoài) của tác giả Phạm Ngũ Lão? read more

Đề thi kết thúc học kì 1 Ngữ văn lớp 10 PTDTNT Tam Đường

Đề thi học kì 1 ngữ văn 10.  Phân tích bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi. Phân tích bài thơ Nhàn.Đề đọc hiểu về bài ca dao.Đọc hiểu :Nếu đất Việt đau thương không thấy biển

SỞ GD&ĐT LAI CHÂU
TRƯỜNG PTDTNT TAM ĐƯỜNG

Đề số 01
ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG HỌC KÌ I Môn: Ngữ Văn 10 Ngày kiểm tra:    / 12/ 2016 Thời gian: 90 phút ( Không kể thời gian chép đề)

 Phần I. Đọc – hiểu (3,0 điểm)
              Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

(Ca dao)

Câu 1: Nêu phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2: Xác định biện pháp tu từ chính được sử dụng trong văn bản? Nêu tác dụng.
Câu 3: Nêu nội dung chính của bài ca dao?
Phần II: Làm văn (7điểm)
    Phân tích bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi (SGK Ngữ văn 10 – tâp 1).
                      “Rồi hóng mát thuở ngày trường,
                        Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
                        Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
                        Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
                         Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
                         Dắn dỏi cầm ve lầu tịch dương.
                         Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng,
                         Dân giàu đủ khắp đòi phương.”
  read more

Bài viết số 3 Ngữ văn 10

Đề kiểm tra bài viết số 3 Ngữ văn lớp 10. Đọc hiểu về bài ca dao, Vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần được thể hiện qua bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Trường THPT An Phước
Tổ: Ngữ văn.

ĐỀ KIỂM TRA BÀI VIẾT SÔ 3 LỚP 10

(Thời gian:90 phút)

ĐỀ
Câu 1:  Dựa vào những bài ca dao than thân

     “ Thân em như tấm lựa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

                                     (Ngữ văn 10, tập 1, tr.83) read more

Đề kiểm tra Ngữ Văn 10 theo chủ đề Thơ trung đại Việt Nam

Đề kiểm tra Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 

CHỦ ĐỀ: THƠ TRUNG ĐẠI TỪ THẾ KỶ X ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ  KỶ XIX

 Chuẩn kiến thức kỹ năng
– Hiểu được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các bài thơ
trong chủ đề thơ trung đại từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX
– Hiểu một số đặc điểm cơ bản của thơ trung đại từ thế kỷ X đến nửa đầu TK
XIX.
– Nhận biết một số phương diện như đề tài, cảm hứng, thể loại, ngôn ngữ
văn học trung đại.
– Biết cách đọc hiểu một văn bản thơ trung đại từ thế kỷ X đến nửa đầu thế
kỷ XIX.
– Vận dụng được những hiểu biết về thơ trung đại và đọc hiểu những văn
bản tương tự ngoài chương trình SGK.
– Phát triển các năng lực:
+ Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
+ Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản.
+ Năng lực đọc hiểu thơ trung đại theo đặc điểm thể loại.
+ Năng lực trình bày suy nghĩ cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản.
+ Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản.
Bảng mô tả các mức độ đánh giá chủ đề “ Thơ trung đại Việt Nam đại từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX theo định hướng năng lực.
  read more

Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài( Tỏ lòng )- Phạm Ngũ Lão

Đề bài : Cảm nhận của em về Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão
Hướng dẫn chung :
Mở bài : Giới thiệu sơ lược về tác giả Phạm ngũ Lão và bài thơ Thuật hoài.
Giới thiệu vấn đề Nghị luận  :Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão
Thân bài :
Ý khái quát :
+Vài nét về tác giả Phạm Ngũ Lão : Ý này có thể tham khảo phần Tiểu dẫn SGK
+ Vài nét về hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính của bài thơ Thuật hoài
Phân tích cụ thể :Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão
Phân tích , cảm nhận theo bố cục 2 phần :
+ Hai câu đầu : Hình ảnh trang nam nhi thời Trần và sức mạnh của quân đội nhà Trần
+ Hai câu cuối : Quan niệm về chí làm trai, tấm lòng của người anh hùng với dân, với nước.
->> Chú ý phân tích cả phần nghệ thuật
Kết bài : Đánh giá về vẻ đẹp  trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão. Khẳng định giá trị bài thơ.
Bài làm :
Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài( Tỏ lòng )- Phạm Ngũ Lão
Sách Đại Việt Sử kí toàn thư ghi: Phạm Ngũ Lão là tướng đời Trần, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên “đánh đâu thắng đấy”. Ông lo việc binh, đồng thời “lại thích đọc sách, ngâm thơ”.  Cũng như nhiều danh tướng đời Trần, Phạm Ngủ Lão vừa cầm quân đánh giặc. vừa viết những áng văn thơ để lại muôn đời Trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Thuật hoài. Đọc bài thơ này, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng cao cả của người trai đời Trần.
Cũng như Cảm hoài, Ngôn hoài; Thuật hoài là một loại thơ trữ tình “ngôn chí” khá phổ biến trong thơ ca thời trung đại, để bày tỏ những ý nghĩ, những tình cảm lớn của tác giả (Thuật hoài có nghĩa là Tỏ lòng). Đến nay, chúng ta chưa nắm được đích xác hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Tuy nhiên, dựa vào nội dung của tác phẩm có thể khẳng định bài thơ này ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đời Trần, khi lực lượng của  nước Đạị Việt đã lớn mạnh nhưng trong chiến đấu chống giặc Nguyên – Mông chưa đi đến thắng lợi cuốí cùng.
Bài thơ viết theo  thể tứ tuyệt luật Đường, 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu được dịch là:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân hùng khí át sa0 Ngưu.
Trong nguyên bản, hai câu này là:
Hoành sóc giang san cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ  khí thôn Ngưu.
“Hoành sóc” được    dịch thành “múa giáo” dễ làm cho  người đọc hiểu không    hoàn toàn đúng. “Hoành sóc” tức là cầm    ngang ngọn giáo, cả câu có nghĩa là *cầm ngang ngọn giáo (bảo vệ) non sông đã mấy mùa thu. Chỉ cần 7 chữ nhưng câu thơ trên đây tả gợi được hình ảnh của người trai đời Trần và cũng chính là của Phạm Ngũ Lão với tư thế hùng düng, luôn kiên cường,sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lập nên những chiến công huy hoàng. Dẫu họ đã ngoan cường chiến đấu bao năm tháng trải mấy thâu” – mấy mùa thu rồi) nhưng vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang bất khuất. Hình ảnh người tráng sĩ càng trở nên chói lọi bởi hùng khí của ba quân Ba quân chính là hình ảnh của cả thế hệ Phạm Ngũ Lão, của cả dân tộc đang sống trong hào khí Đông A. Sức mạnh của “ba quân’ được ví như sức mạnh ghê gớm của hổ báo làm át sao  Ngưu. Còn một cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa :Sức mạnh của ba quân như hổ báo có thể nuốt trôi được cả trâu. Như vậy, câu thứ nhất nói về cá nhân người trai đời Trần câu thứ hai nói về dân tộc, về cộng đồng. Cá nhân có vẻ đẹp hiên ngang của đất  trời, sông núị, vượt qua mọi thử thách của thời gian, cộng đồng, dân tộc có tầm vóc , sức mạnh của vũ trụ. Cá nhân với cộng đồng, với dân tộc có quan hệ mật thiết hài hòa. Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng tạo nên khi thế ngất trời của ba quân; đồng thời khí thế của ba quân lại Làm cho hình ảnh người tráng sĩ thêm lộng lẫy Mỗi con người đều tìm thấy bóng dáng mình trong hào khí chung của dân tộc. Đây là một thời đại cao đẹp của những con người cao đẹp!
Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã phác họa thành công tư thế của nhân vật trữ tình – chàng trai đờỉ Trần và tư thế của dân tộc ta trong một thời điểm lịch sử với  một tầm vóc lớn và quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình ở đây mang vẻ đẹp sử thi, tầm vóc sử thi .Phạm Ngũ Lão không chỉ phát ngôn nhân danh cá nhân mình mà ông còn nhân danh cả dân tộc, cả thời đại
Hình ảnh người tráng sĩ cắp giáo tung hoành nơi trận mạc, hình  ảnh ba quân khí thế ngất trời ta đã gặp nhiều trong văn học trung đại của Việt Nam cũng như của Trung Quốc,(Chàng chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn cũng từng “Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo”. Nói về tướng sĩ trong bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông cũng có câu “Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn”). Song, nếu ở những câu vừa dẫn là những hình ảnh ước lệ nặng tính chất ngao du khoa trương, thì trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là những hình ảnh tuy cũng thật kì vĩ nhưng là những hình ảnh chân thực, hiện thực, bởi người đọc biết rằng chúng ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng vĩ đại của quân dân ta đời Trần. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt đã nhất tể thể hiện tinh thần ấy. Và mỗi binh sĩ thời ấy đều thích hai chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên) vào cánh tay.
Tiếp nối một cách tự nhiên mạch cảm xúc ở hai câu đầu, hai câu sau thể hiện khát vọng lập được nhiều chiến công to lớn vì đất nước của vị tướng – thi sĩ :
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Người trai đời Trần không chỉ cao đẹp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, mà còn cao đẹp bởi có một. quan niệm nhân sinh tích cực. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn trong công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Có công thì mới được ghi danh (têii). Mỗi con người chân chính, đặc biệt đối với những người làm trai, niềm khao khát làm nên sự nghiệp, lưu lại tên tuổi mình cho hậu thế là niềm khao khát chính đáng. Đây chính là động lực to lớn để không ít người có sức mạnh vượt, qua những thử thách cam go lập nên những kì tích vang dội, thúc đẩy sự tiến bộ của toàn xã hội. Chính vì the mà sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỉ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Làm trai sống ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Và không hiểu tự thuở nào ông cha ta vẫn thường khích lệ cháu con: “Làm trai cho đáng nên trai – Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan”. Đây chắc chắn không phải là thói hátn danh phàm tục, trái lại là một quan niệm nhân sinh tiến bộ trong truyền thống dân tộc.
Ở đây, cái hay không chỉ ở nội dung toát ra từ câu thơ của Phạm Ngũ Lão mà còn ở chính con người tác giả. Ta đều biết, viên tướng làng Phù ủng này là người “công danh” lừng lẫy đánh đông dẹp bắc, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, cho đến khi tuổi đã cao ông vẫn còn hăng hái cầm quân đánh tan bọn xâm lược quấy rối biên giới phía Tây Tổ quốc, và được phong chức Điện suý thượng tướng quân (1302), được ban tước Quan nội hầu (1318). Thế nhưng, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn “vương nợ” với đời, còn phải “thẹn” khi nghe chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng 1 một nhân vật siêu việt, có công lớn giúp Lưu Bị thời Tam quốc chia ba thiên hạ. Điều này đủ biết khát vọng và nhân cách của tác giả cao cả biết nhường nào? Phải chăng, chính vì ý thức được món nợ chưa trả xong đối với dân tộc, đối với đất nước, chính vì biết “thẹn” trước những nhân vật lẫy lừng trong sử sách đã tạo nên tầm vóc tuyệt vời của nhà thơ – chàng trai đời Trần, người anh hùng Phạm Ngũ Lão với những chiến tích vang dội và với bài Thuật hoài bất hủ này.
Ra đời cách chúng ta đã 7 thế kỉ, song bài Thuật hoài luôn luôn mới mẻ và hấp dẫn, lay động con tim của bao thế hệ người đọc. Bởi vì, qua bài thơ, độc giả bắt gặp hình ảnh vừa chân thực vừa hoành tráng của người trai thời Trẩn với vẻ đẹp thật là hùng vĩ cao cả.
(Bài viết sưu tầm)
Xem thêm : Soạn bài tỏ lòng ngữ văn 10 read more

Đề thi học sinh giỏi về bài Cảnh ngày hè( Nguyễn Trãi) và Tỏ lòng ( Phạm Ngũ Lão)

Đề thi hay và khó về hai bài thơ Cảnh ngày hè( Nguyễn Trãi) và Tỏ lòng ( Phạm Ngũ Lão)
Đề thi dành cho học sinh giỏi môn văn.
Đề bài :
Bàn về quan niệm  văn học” Thi  ngôn chí”, Phùng Khắc Khoan nhận xét:”Chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng…” (Dẫn theo Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 1999, trang 129).
Anh /chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên? Qua phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão và Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi để làm rõ vẻ đẹp của thơ nói chí như Phùng Khắc Khoan nhận xét.
ĐÁP ÁN read more

Đề thi học kì 1 môn ngữ văn lớp 10

ĐỀ THI HỌC KÌ I – NĂM HỌC 2015-2016 Môn: Ngữ Văn – Lớp 10
Thời gian: 90 phút (Không kể thời gian phát đề)
Câu 1: Cho đoạn hội thoại:
Tại  khu lớp học trường X giờ ra chơi, một đám học sinh đang ngồi nói chuyện:
-Lan: Ê tụi may! Nghe nói ngày mai được nghỉ học đấy.
-Hoa: Thiệt hông mày? Nói xạo tao cho đi Tây Thiên đó cưng.
-Lan: Tao xạo mày làm gì? Để được hưởng bổng lộc nhà nước hả? (cười lớn). Mai nghỉ đi Kara xả xì trét đi tụi bay!
-Hùng: Biết nghỉ không mà rủ nhau đi chí chóe vậy mấy má. Mất công mấy bữa được “miễn học” cả lũ thì toi cả đám.
-Hoa: Mai mà không nghỉ, mấy đứa mình đè đầu con này (Lan) ra, xử đẹp nó luôn, cho hai hàng tiền đạo của nó đi công tác chơi. Hi!
-Hùng: Chuẩn không cần chỉnh.
 
Đọc đoạn hội thoại và trả lời câu hỏi:
Tính cụ thể, tính cảm xúc, tính cá thể trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt được thể hiện như thế nào trong đoạn hội thoại trên?
Câu 2: Viết bài văn khoảng một trang giấy thi trình bày suy nghĩ của em về hiện tượng xả rác bừa bãi ở nơi công cộng hiện nay?
Câu 3: Vẻ đẹp con người và thời đại trong bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão?
Phiên âm   
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hồ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
              Dịch thơ
 
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
-Hết-
ĐÁP ÁN ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I – 2015-2016
MÔN : NGỮ VĂN             LỚP : 10
THỜI GIAN LÀM BÀI : 90 PHÚT read more

PT Magazine bởi ProDesigns