Đây thôn vĩ dạ

Đề thi hay và khó về những bài thơ mới Ngữ văn lớp 11

Đề thi hay và khó về những bài thơ mới lớp 11. Phân tích những bài thơ  mới ngữ văn 11 để làm sáng tỏ nhận đinh của Hoài Thanh :”Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”

Đề bài :

Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.”
(Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh)
Anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh, qua việc phân tích một số bài thơ Mới  đã học trong chương trình Ngữ văn 11 như: Vội vàng – Xuân Diệu, Tràng giang – Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử, Tương tư – Nguyễn Bính. read more

Xây dựng hệ thống câu hỏi dạy học bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” Hàn Mặc Tử

Xây dựng hệ thống câu hỏi dạy học bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) . Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11

1.Tiểu dẫn:                                                             

– Câu hỏi nhớ: Em hãy trình bày những nét chính về cuộc đời và đời thơ của Hàn Mặc Tử?
-Câu hỏi đọc hiểu: Những biến cố trong cuộc đời có ảnh hưởng như thế nào đến hồn thơ của ông?
– Câu hỏi nhớ: Em hãy trình bày xuất xứ của bài thơ? Hoàn cảnh ra đời của bài thơ có gì đặc biệt?
– Câu hỏi đọc hiểu: Em hãy phân chia bố cục của bài thơ và nêu nội dung chính của từng phần? read more

Hàn Mặc Tử- Hồn thơ bí ẩn và phức tạp nhất trong phong trào Thơ Mới

Hàn Mặc Tử- Hồn thơ bí ẩn và phức tạp nhất trong phong trào Thơ Mới
Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử lạ nhất, phức tạp nhất, bất hạnh nhất, bí ẩn nhất. Như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời…
Là sản phẩm của nguồn thơ điên bằng đau thương đặc biệt, Đây thôn Vĩ Dọ là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng.
Bên dưới mỗi hàng chữ sáng tươi là cả một mối u hoài.
Tuy không có những tiếng rên la, những hình ảnh kì dị, ma quái, nhưng mạch liên tưởng toàn bài cũng rất lạ lùng, đứt đoạn, phi logic, cóc nhảy: ngoại cảnh – tâm cảnh, tươi sáng-  âm u, hi vọng – thất vọng  kết nối tương phản. Đó là hai phía của một khối u hoài uẩn khúc.
Khổ đầu: ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như lời mời mọc  từ bên ngoài, hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa, khát khao, rạo rực.
Khổ 2 ước mong khẩn thiết dâng lên hoá thành hoài vọng chới với, nghẹn ngào.
Khổ 3: mong ngóng vừa ló rạng hoá thành nỗi hoài nghi.
Liên tưởng điên – phi lôgic tạo ra âm hưởng nhất quán, vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Tất cả xuất phát từ tình yêu tuyệt vọng – mặc cảm sâu xa của Hàn Mặc tử. […]
Trong bệnh tật, tâm hồn Hàn hình thành hai thế giới: trong này và ngoài kia phân định nghiệt ngã, cách nhau bằng cả tầm tuyệt vọng. Ngoài kia là mùa xuân, thắm tươi, trăng, nhạc, ánh sáng, hạnh phúc, thiên đường, hi vọng,… Trong này chẳng có mùa, là đêm tối, địa ngục, khổ hạnh, âm u, mờ nhân ảnh, lãnh cung… trong này chỉ còn về lại được ngoài kia bằng ước ao thầm lén, khắc khoải hi vọng và tuyệt vọng mà thôi!
Tấm thiệp của Hoàng Cúc đã đánh thức khát vọng về cái ngoài kia. Thôn Vĩ Dạ là địa chỉ khởi đầu của ngoài kia trong hồn Tử. Khát vọng về thăm Vĩ Dạ của Tử cũng là khát vọng về ngoài kia. Vườn xa, thuyền xa, đường xa hợp thành thế giới ngoài kia đối lập với ở đây — trong này.
Sự tương phản giữa hai miền không gian không chỉ là mặc cảm của con người đang sắp chia lìa cuộc đời mà còn là mặc cảm của thi sĩ đang phải lìa xa cái đẹp mà anh đang tôn thờ, chiêm ngưỡng. Cái đẹp, theo quan niệm của Tử là thanh khiết, thanh tú, trinh nguyên, vẻ đẹp của vườn, nắng, trăng, thuyền, khách đường xa là biểu hiện cụ thể của vẻ đẹp ấy. Và mặc cảm chia lìa là mặc cảm tuyệt vọng khiến cho nó trở nên khắc khoải, da diết. Câu hỏi mở đầu là lời Tử phân thân để hỏi chính mình. Ba câu sau tả vườn. Nắng tinh khiết thanh tân lan toả trên những hàng cau, thân cau, lá cau, biến cả Vườn thành viên ngọc lớn. Vườn toả vào không gian những ánh xanh của ngọc thanh tú và cao sang. Chữ ai chuyển tải cảm giác xa xót, thực tại xa vời, tồn tại mong manh ở ngoài tầm với, thuộc thế giới ngoài kia. Từ quá chỉ mức độ, là tiếng kêu ngạc nhiên, ngỡ ngàng như chợt nhận ra vẻ đẹp của vườn trong khoảnh khắc hiếm hoi ấy. Mặt chữ điền là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu là mặt người thôn Vĩ thì sẽ là mặt phụ nữ vì một người đàn ông thôn Vĩ trở về không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông. Nếu là mặt người trở về thôn Vĩ thì chỉ có thể là khuôn mặt của Tử tự họạ chân dung của mình đầy kiêu hãnh và vơ vào. Có thể hiểu cả hai cách như trên.
 
Qua lăng kính chia lìa, tuyệt vọng tình yêu, những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Đó là thiên đường trần gian nhưng không thuộc về mình nữa. Về thôn Vĩ là việc bình thường nhưng với Tử lại quá tầm tay với, thành hạnh phúc ngoài tầm tay.
Khổ 2 không chỉ tả dòng sông Hương mà dòng sông nào đó thể hiện mặc cảm chia lìa, phiêu tán. Tất cả như đang bỏ đi, ngang trái trớ trêu. Chữ lay rất hay. Từ câu ca dao hiện về trong hồn Tử chăng?
Ai về trồng dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em!
Hay là:
Lá ngô lay ở bờ sông,
Bờ sông vẫn gió người không thấy về.
(Trúc Thông)
Sông trăng và thuyền trăng: huyền ảo càng thêm huyền ảo. Nhưng đó cũng mới là vẻ đẹp bề nổi, dễ thấy. Chữ kịp mới mang bi kịch tâm hồn nhà thơ. Mặc cảm thân phận trong hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, từng ngày, từng khắc. Cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Mong mỏi, đau thương và tuyệt vọng.
Khổ 3 khắc khoải hoá thân thành nhịp điệu. Gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn.
Hình ảnh người con gái áo trắng tinh khiết được Tử tôn thờ là hiện thân của thế giới ngoài kia với sắc áo trắng nhoà nhạt đến mức nhìn không ra.
Đến đây, Tử mới trở về nơi tồn tại của mình, với lãnh cung chia lìa bất hạnh của mình.
Cuộc đời ngoài kia vẫn thắm sắc và vẫn cách ở đây một tầm tuyệt vọng, vẫn cách xa một tầm tay với. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu Tử với trần gian. Mà xem ra cái tình ấy cũng mong manh làm sao!
Xem thêm : Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11 read more

Ý nghĩa các câu hỏi trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử

Ý nghĩa các câu hỏi trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử
Điểm tựa cấu trúc bài thơ là bốn câu hỏi nghi vấn: Sao anh không về? Thuyền ai? Vườn ai? Ai biết tình ai?
Muốn nắm bắt được nội dung tình cảm của bài thơ phải xác định ai hỏi, hỏi ai, hỏi gì và hỏi để làm gì?
Cái “tôi” trữ tình của nhà thơ chính là chủ thể phát ngôn ba câu hỏi sau. Riêng câu hỏi đầu thường được hiểu là lời của cồ gái Huế, của nhân vật trữ tình khác bên cạnh tiếng nói của chủ thể trữ tình – nhà thơ.
Thực ra không phải vậy. Ở đây chẳng có tiếng chào mời phiền trách nào cả, ở đây, anh là chủ thể phát ngôn, không phải là đối tượng tác động của lời nói trữ tình. Cái “tôi” trữ tình xưng anh để bộc lộ tâm trạng, trò chuyện với lòng mình.
Diễn xuôi: Sao anh (ta, mình, tồi) không về chơi thôn Vĩ để được nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên như thế này!
Tiếng’nói trữ tình trong bài thơ là tiếng nói độc thoại, một giọng, cái “tôi” trữ tình của nhà thơ là chủ thể phát ngôn duy nhất của tiếng nói ấy.
Vấn đề hỏi ai không cần đặt ra khi phân tích bốn câu hỏi trên, vì đó là những câu hỏi tu từ, câu hỏi chứa đựng quá nhiều thông tin trong câu trả lời. Không có ai hỏi nhà thơ và nhà thơ cũng chẳng hỏi ai. Nhà thơ hỏi mình để bày tỏ lòng mình trò chuyện với lòng mình về thế giới.
Tiếng nói độc thoại nội lâm được liên kết băng bôn câu hoi ma moi câu bộc lộ một trạng thái của cảm xúc. Mọi chi tiết đều đẫm cảm xúc, tâm trạng trữ tình, cảnh — người hoà quyện nhưng không theo lôgic khách quan nào cả. Vì thế bài thơ bảy chữ ba khổ mà không có bóng dáng Đường thi, Tống thi nào. Đây là bản tốc kí tâm trạng-
Khổ thơ đầu là tiếng nói bâng khuâng, rạo rực của cái “tôi” trữ tình trước vẻ đẹp trần thế đầy ắp ánh sáng. Cảm giác đắm say, rạo rực thấm đẫm các chi tiết văn bản hình tượng vừa cất lên thành giọng điệu trữ tình rưng rưng tha thiết trong văn bản ngôn từ.
Mọi chi tiết gần gũí với cảnh làng quê, lại có danh từ xác định địa danh, thành có không ít người lầm tướng đây là tả phong cảnh thôn Vĩ, vẻ đẹp thơ mộng của ngoại ihành Huế. Thật ra nét đẹp chủ yếu trong khổ thơ này là vẻ đẹp lãng mạn kín đáo, e ấp. trong sáng, non tơ, tinh khôi, trinh nguyên của bức tranh quê.
Cảm hứng này cất lên thành tiếng nói trữ tình rưng rưng, tha thiết. Hai nhịp thơ tổ chức thành hai câu nghi vấn. Bao nhiêu thiết tha trong hai từ về chơi, nhìn, và luyến láy nắng hàng cau nắng mới lên… câu nghi vấn biến thành câu cảm thán kết tụ vào từ” quá”  , vào cách so sánh mang tính lí tưởng hoá, ước lệ. Câu thơ thứ tư đột ngột chuyển gợi tả càng giàu chất mộng mơ.
Vẻ đẹp trinh nguyên đầy bí ẩn, không thể chiếm hữu. Vườn ai? Thuyền ai? Tinh ai? Ai biết? Cho nên càng mê đắm say sưa rạo rực bao nhiêu càng cảm thấy trống vắng, có đơn bấy nhiêu. Đó là đặc trưng của cảm hứng lãng mạn. Bởi vậy, đằng sau các câu nghi vấn, khổ đầu bài thơ đã thổi ra khí lạnh của chút thoáng buồn man mác. Đến khổ 2, hoá thành đám mây đen phủ kín tâm hồn thi nhân.
Đó là một thế giới rất khác. Phân lìa, chia li, trái ngược, buồn thiu,, xám xịt, trống vắng, hờ hững, thoắt cái thay thế lất cả cái nắng mới hàng caụ, vườn xanh như ngọc thoáng qua như mộng. Tiếng nói trữ tình rạo rực lắng xuống thay vào tiếng nói hờ hững của cõi lòng băng giá, nguội lạnh.
Đó là hai mặt sáng – tối, trái ngược của cảm hứng lãng mạn, hai cách biểu hiện của niềm ham sống, yêu đời. Nửa đầu vừa khép lại nửa sau nổi dậy những con sống mới.
Mở đầu bàí thơ là cảnh nắng, tiếp theo là cảnh trăng. Trăng, nắng đều Là ánh sáng. Nhưng nắng là thực, trăng là mộng. Lời thơ miên man, phiêu lãng trong mộng ảo, xoá nhoà những nét nghĩa thông thường để phủ lên cả vũ trụ màu bạc của trăng.
Bồng bềnh trên con thuyền trăng, người mơ vẫn phấp phỏng một chữ kịp. Khát khao, đồng cảm dồn vào chữ này. Nhưng cũng chính chữ “kịp”  đã trả nhà thơ về cõi thực.
Anh trăng vụt tắt, thanh âm khô lạnh, ánh nắng xa xăm, người trong mộng thành ảo ảnh. Lồ lộ trắng lạnh. Giọng điệu trữ tình kết tụ vào từ quá như nghẹn ngào, xót xa, tiếc nuối… Nàng thơ cất cánh thần tiên tan vào khói sương lãng đãng. Tiếng nói trữ tinh day dứt vang lên pha chút oán trách, giận hờn.
Tình ơì, ai biết? Đại từ phiếm chỉ ai đã biến tâm trạng riêng tư của thi nhân thành câu hỏi ngàn đời, dành cho tất cả những ai đang khao khát yêu đương, đồng điệu, cảm thông.
Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Tìm đồng cảm, đồng đíệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mờ mịt. Cho nên, đắm say rồi nguội lạnh, mộng rồi tình đó là lôgic vận động của cái “tôi” ham sống, yêu đời trong bài thơ này. Lôgic tâm trạng chi phối lôgic phong cảnh và tổ chức giọng điệu trữ tình- Cảnh lúc như gần, lúc như xa, lúc thực, lúc ảo. sắc điệu trữ tình lúc âm u, lúc chói lạnh. Nhưng giọng điệu chủ yếu của tiếng nói ấy vẫn là giọng bâng khuâng, đầy mơ mộng.
Bài thơ là tiếng nói của cái “tôi” bơ vơ, cô đơn, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà tình yêu lứa đôi và hạnh phúc là biểụ hiện cao nhất.
Là bản tốc kí tâm trạng nhưng nhạc thơ chưa vượt khỏi lời thơ, phá vỡ     lôgic ngữ nghĩa thông thường. Lời thơ chưa thành chuỗi phát ngôn thác  loạn  mà  trong sáng, tao nhã, giản dị. Lấy tình làm điểm tựa để vẽ cảnh nhưng tình chưa tràn ra ngoài cảnh, biến cảnh thành những hình thù méo mó, dị dạng như bóng yêu ma. Tắm trong cảm hứng lãng mạn, cảnh sắc trong bài thơ lung linh, kì diệu mà không kì bí. Đây thôn Vĩ Dạ chưa bước qua địa hạt chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Cho nên bài thơ vẫn là sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những vui buồn của loài người và sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.
Xem thêm : Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11 read more

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử
Hướng dẫn phân tích :
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ do thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940) sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu trong tập Thơ Điên (về sau đổi tên thành Đau thương).Hiện nay, bài thơ này được nhiều người cho là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại.
Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở thôn Vĩ Dạ .
GS. Nguyễn Đăng Mạnh cho biết: Hồi làm nhân viên ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm yêu trộm nhớ đơn phương một cô gái người Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì cô gái đã theo gia đình về Vĩ Dạ (Huế). Một buổi kia, cô Cúc do sự gợi ý của một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, gửi vào cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp một phong cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đã mắc hiểm nghèo (bệnh phong).
Lời thăm hỏi không ký tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử…
Theo Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ Hàn Mặc Tử, thì: Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc…
Lưu ý :Những thông tin trên chỉ mang tính tham khảo, là chìa khóa để chúng ta hiểu bài thơ. Khi phân tích các em không nên áp đặt. Từ ngữ, hình ảnh thơ, biện pháp tu từ trong bài thơ,… mới là căn cứ chính xác để hiểu bài thơ này . read more

Tài liệu Đọc thêm về thi sĩ Hàn Mặc Tử, Ngữ văn lớp 11

Bây giờ Hàn Mặc Tử đã nằm trên một điểm cao Gềnh Ráng (Quy Nhơn, Bình Định) đối diện với bể Đông. Bể chói loà như thơ anh và dông bão lựa hồ đời anh. Nằm với trăng sao như anh từng mơ ước:
Với trăng sao, anh nằm chết như trăng…
Hàn Mặc Tử có tài rất sớm. Bài thơ Cửa sổ đêm khuya (thuận nghịch độc) có thể đọc xuôi, ngược bỏ chữ đầu, cuối… sáu cách,.rất giỏi:
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng ‘
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên đường…
Tử là người dìu dắt tôi (CLV) vào thơ những năm 1936 – 1937. Từ một nhà thơ biền ngẫu theo lối cổ phương Đồng, anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất châu Au. Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời, còn anh hiện đại bằng máu:                            ‘•                                                               ^
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…
Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Anh là nhà thơ lãng mạn dùng nhiều yếu tố siêu thực, hiện thực, nhưng chưa có ai dùng đậm đặc như anh…
Trăng, Tràng, Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!
Cảm cho được cái nhịp điệu tăng, tăng, tăng như tiếng trăng chạm vào tâm hồn, như cái ngân vang của tâm hồn không dứt, là bí mật và huyền diệu. Có khi đọc từng câu, từng ý, cầm từng bộ phận lên ta không hiểu. Nhưng ào đi, đọc một hơi hết cả bài cho nó cuốn ta đi trong dòng chảy của nó, cảm cho hết cái hồn, cái khí lự, không khí, nhịp điệu toàn bài thì ta mới ngợ ra. Rung động toàn bài giúp ta quay lại hiểu từng câu, từng chữ, từng bộ phận. Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm văn. Anh trút lòng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi điêu khắc từng chữ, chạm trổ từng câu…
Hàn Mặc Tử có ý chê tài vua Tự Đức qua bài thơ thuận nghịch độc, anh mới chính là vua:
Ta đi tìm mộng tấm xuân
Gặp vua nhà Nguyễn bay trong mây…
Rực rỡ như vua: Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Trên Gềnh Ráng, mộ Tử bỗng dưng ngời chói. Cách đó không xa, lâu đài của vua Nguyễn đang lụi tàn…
Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói loà, rực rỡ.
(Theo Chế Lan Viên, trong Hàn Mặc Tử- Về tác gia và tác phẩm,)
Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tế Hanh… là các nhà thơ lãng mạn thuần khiết, Huy Cận  sử dụng những yếu tố tượng trưng thì Hàn Mặc Tử là sự hoà sắc của cả lãng mạn, tượng trưng, siêu thực. Tuy nhiên từ căn cốt Đông phương thâm hậu làm cho tượng trưng của ông có bóng dáng Đường thi, và siêu thực thì đậm màu Liêu Trai. Đó là bản sắc độc đáo của phong cách thơ trữ tình của ông.
Thơ ông gợi cảm chứ không truyền cảm. Nhà thơ không truyền thẳng cảm xúc của mình tới người đọc qua ngôn từ mà bằng bản thân ngôn từ, thức dậy năng lượng tiềm ẩn trong lòng ta. Vì vậy mà cảm giác của người đọc no đủ hơn, sâu sắc hơn bởi tránh được sự áp đặt từ bên ngoài…
Hàn Mặc Tử thường trình bày trạng thái tĩnh của thiên nhiên như là hoà điệu của tâm hồn, đồng thời chi phối nó trong một nét tương quan thuỷ chung, thanh thoát. Ông tan biến vào thiên nhiên và không ai siêu thực bằng ông ở Việt Nam thời ấy. Vì sao vậy? Vì tạng thơ ông. Kiểu tư duy, khí chất, bệnh tật làm cho ông luôn luôn phân thân, mơ mộng và hoang tưởng. Siêu thực không phải là ĩ thuật mà là bản chất sáng tạo của Hàn….
(Đỗ Lai-Thuý, Con mắt thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2002)
Xem thêm : Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11 read more

Đề thi học sinh giỏi về bài Vội Vàng- Xuân Diệu và Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử

Đề thi học sinh giỏi về bài Vội Vàng- Xuân Diệu và Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử

Đề bài

Nhà thơ vĩ đại của Ấn Độ Rabinđranat Tagor từng bày tỏ: “Ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình”.

(Những con chim bay lạc)

Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên. Hãy đi tìm tiếng nói của  riêng Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử trong những cảm nhận về sự sống trần gian qua hai đoạn trích sau:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì read more

Những nội dung Ngữ văn 11 có liên quan đến kì thi THPT quốc gia

Những nội dung  Ngữ văn 11 có liên quan đến kì thi THPT quốc gia

Lên lớp 11 cần học những gì ? Bài viết dưới đây Thống kê những bài quan trọng, những nội dung môn Ngữ văn lớp 11 có liên quan trực tiếp đến kì thi THPT Quốc gia. Hướng dẫn ôn tập môn văn lớp 11
Kì thi THPT Quốc gia chủ yếu vào chương trình lớp 12. Tuy nhiên có một số kiến thức của lớp 11 , các em không thể bỏ qua .Admin định hướng cho các em ôn tập phần Ngữ văn 11 như sau :Đề thi THPT Quốc gia 2 năm gần đây có 2 phần :
+ Đọc hiểu
+ Tạo lập văn bản : có 1 câu nghị luận văn học và 1 câu nghị luận xã hội.
Trong chương trình lớp 11, các em cần ưu tiên học những bài quan trọng , cụ thể :
(Các em bấm vào link  để xem chi tiết) read more

So sánh cảnh thiên nhiên Tây Tiến và Đây Thôn Vĩ Dạ

Đề so sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử  và đoạn thơ trong bài Tây Tiến – Quang Dũng.

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử
Hướng dẫn:

1. Mở bài :

Giới thiệu 2 tác giả , 2 bài thơ , 2 đoạn thơ read more

So sánh vẻ đẹp xứ Huế trong Đây thôn Vĩ Dạ và Ai đã đặt tên cho dòng sông

Dạng đề so sánh văn học là dạng đề phổ biến trong các kì thi .Đây là dạng đề tương đối khó , đòi hỏi học sinh phải có tư duy mạch lạc, có vốn hiểu biết sâu sắc về tác phẩm văn học. Các em học sinh có thể tham khảo lí thuyết và hàng loạt đề so sánh ở link này nhé :http://vanhay.edu.vn/tag/dang-de-so-sanh-van-hoc
Bài học hôm nay Admin tiếp tục hướng dẫn các em so sánh hai bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Đề bài :
Vẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hướng dẫn cách làm bài :
Mở bài : read more

Sáng kiến kinh nghiệm dạy bài Đây thôn Vĩ Dạ theo định hướng phát huy năng lực

Tên đề tài :VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG BÀI DẠY ĐÂY THÔN VĨ DẠ
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
 1.Giải pháp cũ thường làm
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT mà đặc biệt là giảng dạy những tác phẩm văn học thuộc thể loại thơ trữ tình trước đây, bản thân tôi cùng các đồng nghiệp vẫn quen sử dụng phương pháp dạy học truyền thống. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết và truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường trung học phổ thông. Những giờ dạy học Ngữ văn trước đây tôi thấy dù có thành công mấy đi chăng nữa thì học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội, tiếp thu và ghi nhớ tri thức một cách máy móc mà chưa phát huy hết được năng lực chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức mới.
Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, trăn trở làm cách nào có thể nâng cao được chất lượng giáo dục học sinh và điều quan trọng hơn là học sinh qua mỗi bài học các em có thể khám phá được những tri thức mới như thế nào và có thể ứng dụng được gì vào trong thực tiễn cuộc sống. Chính vì điều đó tôi muốn cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra được một phương pháp dạy học phù hợp với thực tiễn dạy học Ngữ văn ngày nay. read more

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử

Có ý kiến cho rằng: “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử có cả tâm cảnh và phong cảnh .Em  hãy làm rõ nhận định trên.
Định hướng cách làm : Đây là dạng đề nghị luận ý kiến bàn về văn học, các em cần làm theo 2 bước :
Bước 1 : Giải thích nhận định
Bước 2 : Bàn bạc, Chứng minh nhận định ( lấy dẫn chứng trong tác phẩm )
Các em có thể đọc bài viết hướng dẫn này trước nhé : read more

Đề thi khảo sát ngữ văn 11 Khoái Châu Hưng Yên

Đề thi khảo sát ngữ văn 11 Khoái Châu Hưng Yên
Thời gian làm bài: 120 phút
Câu 1: ( 2,0 điểm):
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi phía dưới:
Người ta chẳng qua là một cây sậy, cây sậy mềm yếu nhất trong tạo hóa nhưng là một cây sậy có tư tưởng.
Cần gì cả vũ trụ phải tòng hành nhau ( hùa vào nhau) mới đè bẹp cây sậy ấy? Một chút hơi, một giọt nước cũng đủ làm chết được người. Nhưng dù vũ trụ có đè bẹp người ta, người ta so với vũ trụ vẫn cao hơn vì khi chết thì biết rằng mình chết chứ không như vũ trụ kia, khỏe hơn người nhiều mà  không tự biết rằng mình khỏe.
Vậy thì giá trị chúng ta là ở tư tưởng.
Ta tự cao dựa vào tư tưởng chứ đừng cậy ở không gian, thời gian là hai thứ chúng ta không bao giờ làm đầy hay đọ kịp. Ta hãy rèn tập để biết tư tưởng cho hay, cho đúng, đó là nền tảng của nhân luân (luân thường đạo lí của con người).
Tôi không căn cứ vào không gian để tìm thấy giá trị của tôi, mà tôi trông cậy vào sự quy định tư tưởng một cách hoàn toàn; dù tôi có bao nhiêu đất cát cũng chưa phải là “giàu hơn”, vì trong phạm vi không gian nàỳ, vũ trụ nuốt tôi như một điểm con, nhưng trái lại, nhờ tư tưởng, tôi quan niệm, bao trùm toàn vũ trụ.
( Theo Pa-xcan, bản dịch của Nghiêm Toản, trong Luận văn thị phạm).
Câu 1a. Câu văn nào có vai trò nêu chủ đề của văn bản? ( 0,5 điểm).
Câu 1b. Nội dung chính của văn bản là gì?   Hãy đặt tên cho văn bản?  ( 0,5 điểm).
Câu 1c. Theo anh (chị) thông điệp mà tác giả muốn nói với người đọc là gì? ( 0,5 điểm).
Câu 1d. Văn bản trên thuộc loại văn bản nào? Vì sao? ( 0,5 điểm).
Câu 2: ( 3,0 điểm):
            Đọc kỹ đề văn sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới:
Hãy viết bài nghị luận trình bày suy nghĩ của anh (chị) về giá trị của con người. 
Câu 2a. Anh (chị ) lập dàn ý cho đề văn trên. (1,5 điểm)
Câu 2b. Chọn một luận điểm trong dàn ý vừa lập và triển khai cụ thể bằng một đoạn văn.(1,5 điểm)
Câu 3: (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh chị về khổ thơ sau trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
…“Gió theo lối gió, mây đương mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”…
Đây thôn vĩ dạ
———Hết——–

Câu 1a. Câu văn nào có vai trò nêu chủ đề của văn bản? Nội dung chính của văn bản là gì? ( 0,5 điểm).

+ Câu 1 nêu chủ đề của văn bản.
+ Hoặc chép lại câu “Người ta chẳng qua là một cây sậy, cây sậy mềm yếu nhất trong tạo hóa nhưng là một cây sậy có tư tưởng”.
Câu 1b. Nội dung chính của văn bản là gì? Hãy đặt tên cho văn bản? ( 0,5 điểm)
+  Con người nhỏ yếu nhưng có tư thế lớn lao trong vũ trụ vì con người có tư tưởng.
+ Điều làm nên giá trị của con người là ở tư tưởng chứ không phải là sự giàu có của không gian, đất cát.
+ Giá trị đích thực của con người chính là tư tưởng.
+ Tầm vóc lớn lao, bao trùm vũ trụ của con người là ở tư tưởng.
+  Các câu trả lời tương tự…
Về ý 2: Có thể theo một trong các hướng sau:
+ Giá trị con người.
+ Giá trị của con người.
+ Tư tưởng và tầm vóc của con người.
+ …
Mức 50% số điểm: Thí sinh trả lời đúng ý của câu hỏi nhưng chưa sâu sắc (chỉ hiểu được nghĩa cụ thể chưa nêu được ý nghĩa khái quát). Đặt nhan đề đúng chủ đề nhưng chưa ngắn gọn.
Về ý 1:  Có thể theo một trong các hướng sau:
+  Con người là cây sậy  mềm yếu nhưng là một cây sậy có tư tưởng.
+  Con người là cây sậy có tư tưởng.
+  Các câu trả lời tương tự…
Về ý 2: Có thể theo một trong các hướng sau:
+ Con người có giá trị khi có tư tưởng.
+ Giá trị của con người là ở tư tưởng.
+ Tư tưởng làm nên giá trị con người.
+ …
Mức không đạt: Thí sinh trả lời không đúng ý của câu hỏi. Đặt nhan đề không đúng nội dung cơ bản của văn bản
Về ý 1: Có thể theo một trong các hướng sau:
+ Nói về cây sậy.
+ Nói về tạo hóa, về không gian.
+ Người ta yếu nhất trong tạo hóa.
+ …
Về ý 2: Có thể theo một trong các hướng sau:
+ Cây sậy.
+ Không gian vũ trụ.
+ Vũ trụ và cây sậy.
Câu 1c. Theo anh (chị) thông điệp mà tác giả muốn nói với người đọc là gì? ( 0,5 điểm):
Có thể theo một trong các hướng sau:
+  Con người phải biết rèn tập để có suy nghĩ, tư tưởng cho hay, cho đúng, không nên quá coi trọng vật chất.
+ Con người cần đề cao tư tưởng, rèn luyện để có tư tưởng lành mạnh, tích cực, giàu có.
+ Tầm vóc lớn lao và sự giàu có của con người trong vũ trụ chính là ở chỗ rèn tập để có tư tưởng tiến bộ tốt đẹp chứ không phải là ở chỗ giàu có về của cải.
+  Các câu trả lời tương tự…
Mức 50% số điểm: Thí sinh trả lời đúng ý của câu hỏi nhưng chưa sâu sắc. Có thể theo một trong các hướng sau:
+  Giá trị chúng ta là ở tư tưởng.
+  Ta tự cao dựa vào tư tưởng, chứ đừng cậy không gin, thời gian.
+  Các câu trả lời tương tự…
Mức không đạt: Thí sinh trả lời không đúng ý của câu hỏi. Có thể theo một trong các hướng sau:
+ Tác giả nói chuyện về cây sậy.
+ Tác giả nói chuyện về giá trị của mình.
+ … read more

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử
Về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Các em học sinh có thể tham khảo bài viết sau đây:
“Đây thôn Vĩ Dạ”  là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
“Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm.
Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây: một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng.
Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay? ”
Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế: “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ.
Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới  thực và mộng . Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhạt nhoà theo năm tháng . Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng, một nỗi băn khoăn về mối tình đơn phương vô vọng.  Sự thất vọng của một thi nhân , của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn.
Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”.
(Tài liệu sưu tầm )
Xem thêm : Bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử, những bài văn hay phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ, tuyển tập đề thi về tác phẩm : Đây thôn Vĩ Dạ read more